Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012
Đức DaLaiLaMa 14
Thích Nguyên Tạng
Mới đây theo công trình nghiên cứu cá nhân của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á, đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Ghandi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14.
Đức Đạt Lai Lạt Ma 14, tên thật là Tenzin Gyatso, là một nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng. Ngài chào đời tại làng Taktser, vùng Đông Bắc Tây Tạng vào ngày 6 tháng 7 năm 1935 (Ất Hợi) trong một gia đình nông dân. Ngài được thừa nhận là Dalai Lama vào năm 2 tuổi theo truyền thống Tây Tạng như là hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, cũng là hiện thân của Đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara), một vị Bồ tát của lòng từ.
Theo truyền thống của người Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma là hiện thân lòng từ của chư Phật và Bồ tát, người chọn con đường tái sinh trở lại kiếp người để cứu giúp chúng sanh. Dalai Lama, nghĩa là "Người bảo vệ đức tin" (Defender of the Faith), "Biển lớn của trí tuệ" (Ocean of Wisdom), "Vua của Chánh Pháp" (King of Dharma), Viên bảo châu như ý (Wishfulfilling Gem).....
Đức Đạt Lai Lạt Ma được tấn phong tước vị Dalai Lama vào ngày 22 tháng 2 năm 1940 tại Lhasa, thủ đô của Tây Tạng, chính thức là người lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho 6 triệu người Tây Tạng.
Khi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 viên tịch vào năm 1933, chính phủ Tây Tạng gặp khủng hoảng trong việc tìm kiếm một người thừa kế.
Năm 1935, vị nhiếp chính đi đến hồ thiêng Lhamo Lhatso ở Chokhorgyal, khoảng 90 dặm từ thủ đô Lhasa. Theo truyền thống của Tây Tạng, người ta có thể nhìn thấy mọi việc ở tương lai từ hồ thiêng (Holy lake) này. Lúc bấy giờ vị nhiếp chính thấy ba chữ Tây Tạng Ah, Ka và Ma hiện lên giữa mặt nước trong vắt của hồ thiêng, theo sau ba mẫu tự này là bức tranh của một ngôi chùa ba tầng với mái ngói màu xanh lục và một căn nhà có chiếc máng xối kỳ lạ.
Năm 1937, chính phủ Tây Tạng đã gởi những hình ảnh thiêng liêng ấy từ hồ thiêng đến các tỉnh thành của Tây Tạng để tìm kiếm nơi tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Một phái đoàn tìm kiếm tái sanh được thành lập và đi về hướng Đông Bắc Tây Tạng, vị trưởng phái đoàn là Lạt ma Kewtsang Rinpoche, Tu viện trưởng Tu viện Sera. Khi phái đoàn đến làng Amdo, họ thấy quang cảnh nơi này giống y như hình ảnh đã thấy dưới hồ thiêng. Lobsang Tsewang cải trang thành người trưởng đoàn, và Lạt ma Kewtsang cải trang thành người thị giả và họ vào thăm một căn nhà với chiếc máng xối kỳ lạ. Bấy giờ Lạt ma Kewtsang có mang một xâu chuỗi (rosary) của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé trong căn nhà ấy đã nhận ra nó và yêu cầu được cầm xem. Lạt Ma Kewtsang hứa sẽ cho nếu chú đoán được ngài là ai. Và chú bé liền trả lời ngay bằng một loại tiếng lóng của địa phương là "Sera aga'', nghĩa là ''Lạt ma ở tu viện Sera". Tiếp đó, Ngài hỏi chú bé vị trưởng đoàn là ai và chú bé đã trả lời đúng; chú cũng cho biết tên chính xác tên của người thị giả. Theo sau đó là một loạt trắc nghiệm khác để chú bé chọn lựa những đồ dùng thường ngày của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 và chú bé cũng nhận ra tất cả và nói: ''của tôi, của tôi". Chú bé ấy chính là Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện nay.
Từ những kết quả của cuộc kiểm tra này giúp họ đoán chắc rằng họ đã tìm ra hóa thân mới và niềm tin của họ càng được vững mạnh thêm bởi những ý nghĩa từ ba mẫu tự Tây Tạng đã từng thấy dưới hồ thiêng: Ah là hàm nghĩa cho tỉnh nơi chú bé chào đời, Ka là chỉ cho Tu viện Kumbum, một ngôi Tu viện lớn nhất với ba tầng gần nhà của chú bé và Ma là ám chỉ cho ngôi tu viện Karma Rolpai Dorje ở trên ngọn núi của ngôi làng gần bên. Cuối cùng phái đoàn quyết định chú bé ấy là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.
Đức Đạt Lai Lạt bắt đầu sự nghiệp học vấn của mình vào năm 6 tuổi và hoàn tất học vị cao nhất của PG Tây Tạng là Geshe Lharampa, tương đương với Tiến sĩ triết học Phật giáo (Doctorate of Buddhist Philosophy) ở tuổi 25 vào năm 1959. Năm 24 tuổi, Ngài đã tham dự kỳ thi đầu tiên tại các đại học Phật giáo Drepung, Sera và Ganden. Kỳ thi cuối cùng được tổ chức tại Jokhang, thủ đô Lhasa trong thời gian lễ hội Monlam, tháng giêng theo lịch Tây Tạng.
Trước đó Ngài phải học tất cả các môn học chính như Luận lý (Logic) văn hóa và nghệ thuật Tây Tạng (Culture & Tibetan Art), Phạn ngữ (Sanskrit), Y học (Medicine), Triết học Phật giáo (Buddhist philosophy). Riêng môn Phật học này là khó nhất, được chia ra làm năm phần là Bát nhã (Prajnaparamita), Trung quán luận (Madhyamika), Giới luật (Vinaya), Luận A Tỳ Đạt Ma (Abidharma) và Nhân minh luận (Pramana). Và các môn học phụ khác là: biện luận (dialetics), thơ ca (poetry), âm nhạc (music) và kịch nghệ (drama), thiên văn (astrology), văn phạm (metre and phraseing ).
Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đức Đạt Lai Lạt đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Ngài đã đến Bắc kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông (Mao Tse-tung) và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai (Chou En-lai) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping). Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng Ngài đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng Ngài phải ra nước ngoài.
Với nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Ngài cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh, trong khi đó ở miền Đông Tây Tạng dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ đối với sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách tàn nhẫn của quân đội điên cuồng của Hoa Lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đức Đạt Lai Lạt Ma vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959.
Ngày nay, với hơn 120.000 người Tây Tạng lưu trú tại vùng đất Dharamsala, Ấn Độ, được biết như là một ''Lhasa nhỏ", lập thành một chính quyền lưu vong Tây Tạng với một Hội Đồng Dân Cử Tây Tạng (Commission of Tibetan People's Deputies) vào năm 1960.
Trong những năm đầu lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi Hoa Kỳ lên tiếng về vấn đề của Tây Tạng, kết quả ba quyết nghị đã được thông qua tại Hội Đồng lập Pháp của Hoa Kỳ vào năm 1959, 1961 và năm 1965, kêu gọi nhà cầm quyền Bắc Kinh phải tôn trọng nhân quyền của người Tây Tạng và ước muốn tự trị của họ. Với việc thành lập một chính phủ lưu vong Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma thấy rằng công việc khẩn cấp phải làm là cứu nguy dân tị nạn và nền văn hóa của Tây Tạng. Các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, văn hóa, giáo dục đã dần được tái hoạt động tại Ấn Độ. Trẻ em Tây Tạng được đi học và một Trường đại học Tây Tạng được thành lập tại Ấn Độ. Có khoảng 200 tu viện Tây Tạng được xây dựng tại Ấn để Tăng chúng tu học, duy trì và bảo vệ văn hóa và tôn giáo của Tây Tạng.
Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một hiến pháp dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên giới luật của nhà Phật và bản hiến chương nhân quyền của LHQ để biên soạn và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai.
Năm 1965, Ngài đến tham dự đại lễ Phật Đản Phật lịch 2500 tại Ấn Độ, đã gặp được Thủ tướng Ấn ông Nehru và ông Chu Ân Lai, đàm phán về vấn đề của Tây Tạng.
Ngày nay, thành viên của quốc hội Tây Tạng sẽ được bầu cử bởi dân chúng. Hội đồng nội các được bầu cử bởi quốc hội. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của chính quyền Tây Tạng là chăm lo cho đời sống người dân và Ngài cũng nói thêm, khi Tây Tạng giành lại nền độc lập, Ngài sẽ không còn ngồi ở văn phòng chính phủ nữa.
Năm 1987, Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự một hội nghị nhân quyền tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Ngài đề xuất một Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm (A Five-Point Peace Plan) bao gồm, 1)Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình; 2)Chấm dứt việc di dân Trung Hoa đang de dọa sự tồn tại của dân tộc Tây Tạng; 3)Tôn trọng các quyền dân chủ, tự do và quyền làm người của dân Tây Tạng; 4)Phục hồi và bảo vệ môi sinh của Tây Tạng và chấm dứt việc sử dụng đất Tây Tạng để sản xuất vũ khí nguyên tử và bỏ đồ phế thải nguyên tử; và 5)Khởi sự thương thảo ngay về quy chế tương lai của Tây Tạng và bang giao giữa Tây Tạng với Trung Hoa.
Ngày 15 tháng 6 năm 1988, tại Strasbourg, Pháp quốc, Ngài nhắc lại Chương Trình Hòa Bình Năm Điểm và yêu cầu nhà cầm quyền Bắc kinh trao trả lại nền độc lập cho Tây Tạng. Ngày 9 tháng 10 năm 1991, trong khi phát biểu tại đại học Yale, Hoa Kỳ, Ngài bày tỏ ý định muốn trở về thăm Tây Tạng để đích thân đánh giá tình hình chính trị nơi ấy. Ngài nói: ''Tôi thật sự lo lắng vì tình cảnh bạo động có lẽ sẽ bùng nỗ. Tôi muốn làm cái gì đó để chận đứng lại... chuyến viếng thăm của tôi sẽ là một cơ hội mới để làm tăng thêm sự cảm thông và tạo ra một nền tảng để giải quyết''.
Từ chuyến viếng thăm phương Tây đầu tiên của Ngài vào năm1973, một số trường đại học và viện nghiên cứu đã trao tặng Ngài những Giải thưởng về Hòa bình (Peace Award) và Bằng Tiến sĩ danh dự (honorary Doctorate Degree) để tuyên dương những tác phẩm xuất sắc của Ngài viết về triết học Phật giáo, giải pháp cho những xung đột của quốc tế, vấn đề nhân quyền và môi sinh toàn cầu. Trong lần trao giải thưởng cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Ủy Hội Nhân quyền Raoul Wallenberg, dân biểu Mỹ ông Tom Lantos đã nói: "sự đấu tranh dũng cảm của Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tạo ra một sự chú ý đặc biệt về nhân quyền và hòa bình thế giới. Sự kiên trì đấu tranh của Ngài để chấm dứt khổ đau cho dân tộc Tây Tạng qua những cuộc đàm phán hòa bình và hòa giải". Ủy ban Hòa Bình Na Uy quyết định trao tặng Giải thưởng Nobel Hòa Bình (Peace Prize) cho Ngài vào năm 1989 sau khi được cả thế giới tán dương và tán thành, ngoại trừ Trung Hoa. Trong quyết định ấy có đoạn viết: "Ủy ban muốn nhấn mạnh rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma với sự đấu tranh cho tự do cho Tây Tạng vẫn kiên quyết không sử dụng bạo lực. Ngài đã ủng hộ giải pháp hòa bình dựa trên tinh thần khoan dung và tôn trọng lẫn nhau để bảo vệ lịch sử và tài sản văn hóa của con người''. Vào ngày 10 tháng 12 năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tiếp nhận giải thưởng hòa bình trên tinh thần nhân danh những người bị đàn áp ở khắp mọi nơi, tất cả những ai đấu tranh cho tự do và hòa bình thế giới và đặc biệt là nhân dân Tây Tạng. Trong lời phát biểu tại buổi lễ nhận giải, Ngài đã nói: ''Giải thưởng đã tái xác nhận một lần nữa lòng quyết tâm của chúng tôi rằng chân lý, lòng dũng cảm và quyết tâm của chúng tôi như là những vũ khí, Tây Tạng sẽ được tự do. Cuộc đấu tranh của chúng tôi vẫn phải theo đuổi đường hướng bất bạo động và loại bỏ hận thù'' ("The prize reaffirms our conviction that with truth, courage and determination as our weapons, Tibet will be liberated. Our struggle must remain nonviolent and free of hatred").
Từ năm 1967, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khởi hàng loạt chuyến viếng thăm, đến nay đã được 46 quốc gia. Vào mùa thu năm 1991, Ngài đến thăm vùng Baltic khi nhận được lời mời của Tổng thống Lithuania, ông Vytautas Landsbergis, và Ngài đã trở thành vị khách ngoại quốc đầu tiên đọc diễn văn tại quốc hội của Lithuania. Ngài đã gặp đức Giáo Hoàng Paul đệ lục tại Vatican vào năm 1973 và đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị vào năm 1980 tại Rome và các năm khác là 1980, 1982, 1986, 1988 và 1990.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thường nói rằng: ''Tôi chỉ là một tu sĩ Phật giáo bình thường, không hơn, không kém'' (I am just a simple Buddhist monk - no more, no less). Sống trong một tịnh thất nhỏ ở Dharamsala, Ngài thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, ngồi thiền, rồi tiếp tục làm việc theo thời khóa biểu của văn phòng chính phủ, tiếp khách và diễn giảng giáo lý cho các khóa tu hoặc chứng minh các đại lễ.
Mặc dù bận rộn với nhiều công tác của chính phủ và hoằng Pháp, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng dành những thời gian nhất định để viết những tác phẩm Phật học, lịch sử, tự truyện... để phổ biến những tinh túy trong giáo lý của Phật Đà. Khởi viết cuốn ''Đất nước và Con người của Tôi'' (My Land and My People) vào năm 1964 sau khi Ngài đến tị nạn tại Ấn Độ, tính đến nay đã có trên dưới 50 tác phẩm các loại, do chính ngài tự tay viết hoặc do đệ tử ghi chép những bài giảng của Ngài hoặc họ viết về ngài. Đáng chú ý trong số tác phẩm này là: "Khai mở con mắt trí tuệ" (The opening of the Wisdom eye, xuất bản năm 1972; "Phật giáo của Tây Tạng'' (The Buddhism of Tibet, xb năm 1975); "Dalai Lama: chính sách của Lòng Từ" (The Dalai Lama: A Policy of Kindness, xb năm 1990); "Tự do nơi lưu đầy'' (Free in Exile, xb năm 1991); "Ý nghĩa của cuộc sống'' (The meaning of Life, xb năm 1992) "Tia sáng trong bóng đêm" (Flash of Lightning in the Dark of Night, xb năm 1994); ''Cuộc đối thoại về trách nhiệm chung và giáo dục ''(Dialogues on Universal Responsibility and Education, xb năm 1995); "Sức mạnh của lòng từ'' (The power of compassion, xb năm 1995); "Con đường giải thoát'' (The path of Enlightenment, xb năm 1995); "Bạo lực và Lòng từ bi/ sức mạnh của Phật giáo" (Violence and Compassion/ Power of Buddhism, xb năm 1995); "Bốn Chân Lý Mầu Nhiệm" (The Four Noble Truths, xb năm 1998); "Nghệ thuật hạnh phúc" (The art of Happiness, xb năm 1998).,"Mật Tông Kalachkra (KALACHAKRA TANTRA, Xb 1999); "ý Nghĩa cuộc cuộc sống"( THE MEANING OF LIFE, Xb 1999); " Khoa học Tâm Linh, cuộc đối thoại của đông & Tây" (MIND SCIENCE,An East-West Dialogue, xb 1999); "Ngủ, nằm mơ và Chết, một cuộc khám phá của Tâm thức" (SLEEPING, DREAMING, AND DYING, An Exploration of Consciousness, Xb 1999) "Thế giới của PG Tây Tạng, khái quát về triết lý và thực hành" (THE WORLD OF TIBETAN BUDDHISM, An Overview of Its Philosophy and Practice, Xb 1999 ).v.v... (địa chỉ liên lạc để thỉnh sách của Ngài là: Snow Lion, PO Box 6483. Thaca, NY 14851, USA. Tel: 001-607-273-8519. Fax: 001-607-273-8508. e-mail: Snow Lion. http://www.snowlionpub.com. Wisdom Publication, 361 Newbury Street, Boston, Ma. 02115, USA. Tel: 001-617-536-3358, Fax: 001-617-536-1897. http://www.snowlionpub.com; Dharma Publishing, 2910 San Pablo Ave, Berkeley, CA 94702, USA. Tel: 001-510-548-5407. Fax: 001-510-548-2230. Wisdom Books, 402 Hoe Street, London E17 9AA, UK. Tel: 0044-181-520-5588. Fax: 0044-181-520-0932. http://www.demon.co.uk/wisdom. Địa chỉ liên lạc với tác giả: His Holiness the Dalai-Lama's Religious and Cultural Society. Gangchen Kyishong, Dharamsala 176215, District Kangra, Himachal Pradesh INDIA.
Như sự mô tả của giáo sư Eric Sharpe thánh nhân là người suốt đời chú trọng đến việc mang lại an lạc cho con người và cuộc đời. Trong khi theo đuổi lý tưởng ấy, họ thường phải hứng chịu những trở ngại, đau đớn hoặc nguy hiểm đến sinh mạng. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã hiện thân cho những gì đã được mô tả ấy. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, sự xuất hiện của ngài như là một định mệnh, đã thừa kế tước vị Dalai Lama ở trong một giai đoạn bấp bênh nhất trong toàn bộ lịch sử cao quý này. Hiện nay, vẫn trong thân phận người tị nạn lưu vong, tuy nhiên, Ngài rất lạc quan và hy vọng cho tương lai độc lập và tự do cho thế giới và xứ sở của Ngài như lời Ngài đã nhắc tới trong bức Thông Điệp 2000: "Thế kỷ 20 đầy xung đột và chiến tranh. Từng bước, chúng ta bảo đảm thế kỷ tới sẽ có đặc tính bất bạo động và đối thoại, là điều kiện tiên quyết để cùng hiện hữu bên nhau trong hòa bình". "Xã hội nào cũng có những khác biệt và xung đột. Tuy vậy, chúng ta cần phát triển niềm tin tưởng rằng: đối thoại và tình bạn là một đường lối chính chắn để tránh bạo động. Trước thiên kỷ mới, điều mọi người cần thực hiện là tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với quốc tế".
**
John Avedon: Khi được công nhận là Đạt Lai Lạt Ma, cảm giác đầu tiên của ngài là gì? Ngài thấy điều gì xảy ra cho mình?
Dalai Lama: Tôi rất hạnh phúc. Tôi rất thích sự kiện này. Trước khi người ta tìm tôi, tôi đã thường nói với mẹ tôi rằng tôi sẽ đi tới Lhasa (thủ đô của Tây Tạng). Tôi thường ngồi thả chân ở hai bên bậu cửa sổ, làm ra vẻ như đang cưỡi ngựa đến Lhasa. Lúc đó tôi còn rất nhỏ, nhưng tôi nhớ rõ chuyện này. Tôi muốn đi về Lhasa. Một chuyện khác mà tôi đã không nói trong tập tự truyện (in lần đầu tiên năm 1961), là sau khi tôi ra đời, có hai con quạ bay đến đậu trên mái nhà chúng tôi. Chúng đến vào mỗi buổi sáng, đậu ở đó một lúc rồi bay đi. Điều này rất đáng chú ý, vì đã có những hiện tượng tương tự xảy ra trong thời gian mới chào đời của các vị Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất, thứ bảy, thứ tám và thứ mười hai. Sau khi các vị đó ra đời, có hai con quạ bay đến đậu ở trước nhà. Trong trường hợp của tôi, lúc đầu không có ai để ý, nhưng mới đây, khoảng ba năm trước, khi tôi nói chuyện với mẹ tôi, bà đã nhớ lại chuyện này. Bà đã nhìn thấy hai con quạ bay tới đậu trước nhà vào mỗi sáng sớm và một lúc lâu chúng lại bay đi. Buổi tối sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất ra đời, bọn cướp đột nhập vào nhà gia đình ngài. Cha mẹ ngài bỏ chạy để lại đứa trẻ. Ngày hôm sau, khi trở về nhà, họ tìm thấy em bé ở trong một góc nhà, có một con quạ đứng trước nhà để bảo vệ. Về sau, khi Đức Đạt Lai Lạt Ma lớn lên và tu tập có kết quả, trong lúc thiền quán, ngài tiếp xúc trực tiếp với các vị thần hộ pháp Mahakala (Đại Hắc Thiên). Lúc đó ngài Mahakala đã nói rằng “Một người như ngài đang làm công việc hoằng dương Phật pháp, cần phải có một vị bảo hộ như
tôi. Ngay trong ngày ngài ra đời, tôi đã bảo hộ ngài” (somebody like you who is upholding the Buddhist teaching needs a protector like me. Right on the day of your birth, I helped you). Như vậy chúng ta thấy rõ ràng có sự liên quan giữa Mahakala, những con quạ và các vị Đạt Lai Lạt Ma. Một chuyện nữa xảy ra mà mẹ tôi nhớ rất rõ là ngay sau khi tôi đến Lhasa, tôi đã nói rằng răng của tôi ở trong một chiếc hộp ở trong tòa nhà nào đó ở cung điện mùa hè Norbulingka. Khi họ mở chiếc hộp đó ra, bộ răng của vị Đạt Lai lạt Ma thứ 13 đang nằm ở đó. Tôi đã chỉ vào cái hộp và nói rằng răng của ta đấy, nhưng bây giờ thì tôi không còn nhớ gì về chuyện đó cả. Những ký ức mới của thể xác này mạnh hơn. Quá khứ đã trở nên mờ nhạt hơn, tôi không nhớ gì cả trừ khi đặc biệt ra sức gợi lại một ký ức như thế.
John Avedon: Ngài có nhớ lúc được sinh ra hay trạng thái ở trong bào thai trước đó không?
Dalai Lama: Tôi không nhớ lúc đó. Khi còn nhỏ tôi cũng không nhớ gì. Nhưng hình như có một dấu hiệu nhỏ bên ngoài. Trẻ sơ sinh thường ra đời với hai mắt nhắm, còn tôi thì ra đời với hai mắt mở, có thể điều này cho thấy chút ít trạng thái tâm trí tỉnh thức trong bào thai.
John Avedon: Lúc còn nhỏ ngài nghĩ gì về việc mình được những người lớn đối xử như một nhân vật quan trọng? Ngài có lo sợ vì sự kính trọng như vậy không?
Dalai Lama: Người Tây Tạng là một dân tộc thực tế, những người Tây Tạng lớn tuổi không bao giờ đối xử với tôi như vậy. Tôi cũng rất tự tin. Trên đường đi đến Lhasa lần đầu tiên, ở vùng đồng bằng Debuthang, vị Bốc Sư Nechung tới để chứng thực thêm tôi là người được chọn đúng. Đi cùng với vị này là một “geshay” già, rất được kính trọng và đã đạt chứng ngộ cao ở Trường Loseling của Tu Viện Drepung. Vị tiến sĩ này rất quan tâm đến việc tôi có phải đúng là người cần phải tìm hay không. Phạm sai lầm trong việc tìm vị Đạt Lai Lạt Ma là điều nguy hiểm. Vị này là một tăng sĩ nhưng không phải là một viên chức của chính phủ. Ông ấy đi vào lều nơi tôi có mặt với một nhóm người tới thăm, và xác quyết rằng tôi đúng là người cần tìm. Như vậy, dù có một số người già nghiêm khắc, muốn sự việc phải chắc chắn, tôi cũng đã hành xử tốt và đã chinh phục được họ (cười). Tôi không bao giờ cảm thấy khó chịu trong vị trí của mình.
John Avedon: Khoảng giữa năm mười sáu tuổi đến mười tám tuổi, sau khi nắm quyền lực chính trị thế tục, ngài có thay đổi gì không?
Dalai Lama: Có, tôi đã thay đổi một chút. Tôi đã trải qua nhiều hạnh phúc cũng như đau buồn. Từ sự trưởng thành của cuộc sống, từ những vấn đề nảy sinh để có thêm kinh nghiêm, tôi đã thay đổi. Kết quả là con người mà ông đang thấy bây giờ (cười).
John Avedon: Khi vừa tới tuổi trưởng thành ngài có tâm trạng như thế nào? Nhiều người trải qua một thời kỳ khó khăn khi nhận thấy mình đã là một người lớn. Điều này có xảy ra với ngài không?
Dalai Lama: Không, cuộc đời của tôi trôi đi một cách đều đặn. Tôi học hai buổi mỗi ngày, còn những lúc khác thì chơi đùa (cười). Đến năm mười ba tuổi, tôi bắt đầu học triết học, pháp số, tranh luận, và thư pháp. Tôi học nhiều hơn trước. Tất cả đều là những việc hằng ngày và dần dần tôi cũng quen với những việc này. Có khi tôi được nghỉ hè. Những kỳ nghỉ này rất dễ chịu, hạnh phúc. Anh của tôi, Losang Samten luôn ở trường học nhưng trong những thời gian đó anh cũng tới thăm tôi. Cũng có khi mẹ tôi mang loại bánh mì đặc biệt ở quê hương, tỉnh Amdo, đến cho tôi. Bánh này rất dày và ngon, do mẹ tôi tự tay làm.
John Avedon: Khi trưởng thành ngài có dịp nào gặp cha của ngài hay không?
Dalai Lama: Cha tôi qua đời năm tôi mười ba tuổi.
John Avedon: Có vị tiền nhiệm nào ngài đặc biệt chú ý hay có một sự liên quan riêng nào đến ngài không?
Dalai Lama: Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba. Ngài đã cải tiến nhiều những tiêu chuẩn học ở các Phật học viện. Ngài khuyến khích rất nhiều những học sinh thành tâm. Ngài ngăn cản những người thiếu năng lực mà lại muốn tiến thân trong tăng đoàn, muốn trở thành sư trưởng hay những mục tiêu khác. Về phương diện này ngài rất nghiêm khắc. Ngài cũng làm lễ truyền giới cho mấy chục ngàn tăng sĩ. Đó là hai thành tựu tôn giáo chính yếu của đời ngài. Ngài không ban nhiều lễ truyền pháp, cũng không thuyết pháp nhiều. Đối với đất nước thì ngài đã có những tư tưởng lớn và đã quan tâm và cải cách về hành chánh, đặc biệt là đối với những vùng ở xa, làm sao để công việc hành chánh ở những nơi đó được tốt. Ngài rất chú trọng tới việc điều hành chính phủ một cách có hiệu quả hơn. Ngài còn chú ý nhiều điều tương tự.
John Avedon: Trong cuộc đời ngài những bài học riêng hay những thách thức nội tâm lớn nhất của ngài là gì? Những chứng nghiệm nào có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự phát triển cá nhân của ngài?
Dalai Lama: Về chứng nghiệm tâm linh thì tôi có một sự chứng ngộ tánh không (sunya/emptiness) nào đó, một thứ cảm giác, chứng nghiệm, và phần lớn là bồ đề tâm, từ bi. Điều này giúp nhiều điều cho tôi. Có thể nói rằng nó đã làm cho tôi trở thành một con người mới. Tôi vẫn đang tiến xa hơn, đang cố gắng. Nó giúp tôi có thêm sức mạnh nội tâm, có can đảm và dễ chấp nhận hoàn cảnh hơn. Đó là một trong những kinh nghiệm lớn nhất của tôi.
John Avedon: Về mặt bồ đề tâm thì ngài đang nói đến sự tiến bộ thêm về chứng ngộ hay ngài muốn nói đến nhân tố liên quan nào đó ở bên ngoài?
Dalai Lama: Chính yếu là về sự tu tập bên trong. Cũng có thể có những nguyên nhân hay hoàn cảnh bên ngoài. Những nhân tố bên ngoài có thể đã đóng góp một phần trong việc gây dựng một cảm giác nào đó về bồ đề tâm. Nhưng chính yếu là từ sự tu tập nội tâm.
John Avedon: Ngài có thể kể ra một khoảnh khắc đặc biệt nào đó trong quá trình tu tập của mình không?
Dalai Lama: Về thuyết tánh không, thuyết tánh không trước tiên, rồi cảm giác bồ đề tâm… vào khoảng 1965 hay 1966, trong khoảng thời gian đó. Đây thực sự là chuyện riêng tư. Đối với một hành giả chân chính thì những điều này phải được giữ kín.
John Avedon: Vâng, sẽ không đề cập về những chứng nghiệm sâu xa nhất của ngài, nhưng còn những sự kiện trong đời ngài; những sự kiện này đã có ảnh hưởng như thế nào đối với ngài trong việc hình thành nhân cách? Ngài đã trưởng thành như thế nào qua những kinh nghiệm này?
Dalai Lama: Trưởng thành như một người lưu vong là điều hữu ích. Tôi sống gần với thực tế hơn. Hồi tôi còn ở Tây Tạng với tư cách một vị Đạt Lai Lạt Ma, tôi đã cố gắng sống một cách thực tế, nhưng phần nào vì hoàn cảnh nên đã có một khoảng cách nhất định giữa tôi và đời sống bên ngoài, tôi có phần bị cô lập với thực tại. Và rồi khi trở thành một người tị nạn, một người mất nước, đó lại là cơ hội tốt để tôi có thêm kinh nghiệm, và nó cũng giúp tôi có thêm lòng cương quyết hay sức mạnh nội tâm.
John Avedon: Khi trở thành người tị nạn, điều gì đã giúp ngài có được sức mạnh này? Có phải là việc mất địa vị và tổ quốc của ngài chăng? Hay là sự kiện dân chúng thống khổ xung quanh ngài? Ngài có được yêu cầu lãnh đạo nhân dân của ngài theo một đường lối khác với cách ngài đã quen thuộc hay không?
Dalai Lama: Làm người tị nạn, thật sự là một tình thế nguy hiểm và tuyệt vọng. Lúc đó mọi người phải đối phó với thực tại. Đó không phải là lúc vờ cho rằng mọi việc đều tốt đẹp. Và đó là một điều khó khăn. Người ta cảm thấy mình dấn thân vào thực tại. Trong thời thanh bình mọi việc đều trôi chảy. Ngay cả khi có một sự cố nào đó, người ta cũng du di như mọi chuyện đều tốt. Nhưng trong thời khó khăn thực sự, khi có biến cố lớn, thì người ta không thể nào cho rằng mọi chuyện đều tốt, phải rạch ròi tình trạng xấu là xấu. Khi tôi trốn khỏi cung điện mùa hè Norbulingka thì tình thế thật nguy hiểm. Chúng tôi đã băng qua gần những doanh trại của quân đội Trung Quốc. Một trạm kiểm soát nằm ngay trên bờ sông bên kia. Khoảng hai hay ba tuần trước khi tôi trốn đi, chúng tôi đã có tin tức chắc chắn là người Trung Quốc đã chuẩn bị đầy đủ để tấn công chúng tôi. Vấn đề chỉ còn là ngày giờ mà thôi.
John Avedon: Lúc đó ngài vượt qua sông Kyichu và gặp nhóm du kích quân Khamba đang đợi ngài ở đó, ngài có giữ quyền lãnh đạo trực tiếp hay không? Trong cuộc trốn chạy của ngài, ai là người ra những quyết định?
Dalai Lama: Ngay khi rời khỏi Lhasa, chúng tôi đã lập một nhóm bên trong, một ủy ban để thảo luận mọi việc. Tôi và tám người khác.
John Avedon: Có phải việc làm cho mọi người nhất trí là ý kiến của ngài?
Dalai Lama: Đúng. Những người được để lại phía sau ở Lhasa cũng lập một Ủy Ban Nhân Dân, một hình thức hội đồng cách mạng (revolutionary council). Tất nhiên đối với Trung Quốc thì đây là ủy ban phản cách mạng. Trong vòng vài ngày, họ thành lập ủy ban đó, do nhân dân đề cử và ủy ban này đưa ra mọi quyết định. Tôi đã gởi một bức thư đến để phê chuẩn ủy ban đó. Trong ủy ban nhỏ, những người chạy trốn cùng với tôi, mỗi đêm chúng tôi thảo luận những điểm thực tiễn. Lúc đầu, kế hoạch của chúng tôi là thiết lập bộ chỉ huy ở miền nam Tây Tạng. Vào ngày 24 tháng tư năm 1959, tôi cũng cho thủ tướng Nehru của Ấn Độ biết rằng chúng tôi đã thành lập chính phủ lâm thời của Tây Tạng, chuyển từ Lhasa tới miền nam Tây Tạng. Tôi thông báo điều này một cách tự nhiên cho thủ tướng. Ông ấy hơi nao núng (cười), nhưng ông ấy nói “chúng tôi sẽ không công nhận chính phủ của ngài”. Dù chính phủ này đã được thành lập trong khi còn bên trong Tây Tạng và lúc đó tôi đã ở bên Ấn Độ rồi.
John Avedon: Tôi muốn hỏi về việc ngài là hóa thân của Bồ Tát Đại Bi Quán Thế Âm (Chenrezi/Avalokitesvara). Ngài có cảm nghĩ gì về điều này? Ngài thừa nhận rõ ràng điều này hay còn có quan điểm nào khác?
Dalai Lama: Tôi khó có thể nói một cách xác quyết. Tôi không thể nói chính xác được, trừ khi tôi ra sức tham thiền, nhập định quán tưởng về lại cuộc đời của mình trong từng hơi thở một. Chúng tôi tin có bốn loại tái sinh. Thứ nhất là loại thông thường, trong đó sinh linh không thể quyết định sự tái sinh của mình. Loại tái sinh thứ hai là của một vị Phật toàn giác, chỉ cần hóa hiện một thân vật chất để tiếp tục công việc giáo hóa chúng sinh. Trong trường hợp này, rõ ràng người ấy là một vị Phật. Loại tái sinh thứ ba là của một người đã từng có những thành tựu tâm linh trong quá khứ, có khả năng chọn lựa, hay ít nhất cũng có thể tác động đến địa điểm và hoàn cảnh tái sinh. Loại tái sinh thứ tư được gọi là hiển lộ sự gia hộ, trường hợp này người tái sinh được ban ơn gia hộ vượt ngoài khả năng thông thường, để làm những việc lợi ích, như giảng dạy chân lý giải thoát cho người khác. Được tái sinh loại này là do trong các kiếp quá khứ người đó đã có ý nguyện mạnh mẽ giúp đỡ chúng sinh. Dù có thể thuộc vào một loại tái sinh nào đó, nhưng tôi không thể nói chắc là mình thuộc loại nào.
John Avedon: Về vai trò thực tiễn Quán Thế Âm Bồ Tát mà ngài đang lãnh nhận, ngài có cảm nghĩ gì? Chỉ có một ít người đã được xem là thiêng liêng về mặt này hay mặt khác. Sứ mạng này là một gánh nặng hay là một điều thú vị?
Dalai Lama: Vai trò này rất hữu ích, vì qua đó tôi có thể mang lại lợi ích lớn lao cho người khác. Vì vậy mà tôi thích vai trò Quán Thế Âm, và tôi quen thuộc với vị trí này. Dễ dàng thấy rằng điều này giúp ích cho nhiều người, và rõ ràng là tôi có nhân duyên để lãnh nhận vai trò này. Và cũng rõ ràng là có nhân duyên với nhân dân Tây Tạng nói riêng. Ông hãy xét điều này, trong những hoàn cảnh từ trước đến nay của chúng tôi, phải nói là tôi rất may mắn. Tuy nhiên sự may mắn nào cũng phải có những gốc rễ và lý do của nó. Do tiềm năng của nghiệp lực cũng như nguyện lực đã giúp tôi đảm đương sứ mạng này. Về phương diện này, trong cuốn “Nhập Bồ Tát Đạo”(Engaging in the Bodhisattva Deeds), Luận Sư Shantideva nói: “khi nào còn trời còn đất và còn luân hồi, tôi nguyện ở lại nơi này để cứu khổ độ sinh”(as long as space exists, and so long as there are migrators in cyclic existence, may I remain – removing their suffering). Tôi có thệ nguyện như vậy trong cuộc đời này và biết mình đã có ý nguyện ấy trong những kiếp trước.
John Avedon: Với mục tiêu bao la như vậy làm động lực, ngài đối phó như thế nào với những hạn chế riêng tư, những giới hạn thuộc về con người?
Dalai Lama: Luận sư Shantideva cũng nói “Nếu Đức Phật toàn giác không thể làm vừa lòng chúng sinh thì làm sao ta có thể làm được?”(If the blessed Buddha cannot please all sentient beings, then how could I). Ngay cả một đấng giác ngộ có trí tuệ và quyền năng vô hạn và có ý nguyện cứu độ chúng sinh thoát khổ cũng không thể giải trừ nghiệp cá nhân của mỗi người được.
John Avedon: Phải chăng điều này đã làm ngài không cả lo khi trông thấy cảnh khổ của sáu triệu dân Tây Tạng, những người mà ngài có trách nhiệm trong một chừng mực nào đó?
Dalai Lama: Động lực của tôi hướng về toàn thể chúng sinh. Tuy nhiên, ở một mặt khác tôi cũng hướng về những người dân Tây Tạng. Nếu một vấn đề có thể giải quyết được, có thể sửa đổi được, thì không có gì phải lo nghĩ. Nếu không thể sửa đổi được thì lo lắng cũng bằng không. Lo nghĩ không có một chút ích lợi nào cả.
John Avedon: Nhiều người cũng nói như vậy, nhưng ít có người nào làm theo. Ngài luôn luôn nghĩ như vậy hay ngài đã phải học dần dần điều này?
Dalai Lama: Quan điểm này được phát triển từ sự tu luyện nội tâm. Nói chung thì sự đau khổ luôn tồn tại. Trong chừng mực nào đó, người ta phải gặp những nghiệp quả xấu mà mình đã tạo ra trong quá khứ qua thân, khẩu, ý; mà ngay bản chất của con người cũng là đau khổ. Theo quan điểm của tôi, không chỉ có một mà còn có nhiều nhân tố khác nhau tác động. Trên quan điểm thực thể gây ra đau khổ, thì như tôi đã nói, nếu nó có thể sửa chữa được thì không việc gì phải lo nghĩ. Nếu không thể sửa đổi được thì lo nghĩ cũng không ích lợi gì. Trên quan điểm nhân quả thì đau khổ là hậu quả của ác nghiệp do chính mình tạo ra trong quá khứ chứ không phải do ai khác. Những nghiệp xấu này không bao giờ tàn lụi nếu mình không tu tập ngay từ bây giờ. Ác nghiệp sẽ sinh ra quả xấu nếu mình không dùng thiện nghiệp để xóa mờ. Người ta không bao giờ gặp những nghiệp quả báo ứng nào không do chính mình tạo ra. Sau cùng, về mặt bản chất của khổ đau là do tính chất của năm uẩn tạo thành, đưa đến sự khổ lụy cho thân và tâm. Năm uẩn, gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức, là nền móng của đau khổ. Chừng nào còn có thân năm uẩn thì người ta còn phải chịu đau khổ. Xét một cách sâu xa thì khi chúng tôi bị mất độc lập và phải sống ở xứ lạ quê người, chúng tôi chịu những loại khổ đau nào đó, còn khi chúng tôi trở về Tây Tạng và giành lại nền độc lập tự chủ thì cũng sẽ có những loại khổ đau khác phát sinh. Bản chất của đời sống là như vậy. Người ta có thể cho tôi là bi quan, nhưng tôi không bi quan, mà đây là triết lý hiện thực của Phật Giáo (Buddhist realism). Giáo lý này giúp chúng tôi đối diện với mọi hoàn cảnh của kiếp người. Có lần, khi năm mươi ngàn người thuộc bộ tộc Thích Ca (Sakya) bị giết, Phật Thích Ca đã không đau khổ, ngài đứng tựa vào một gốc cây và nói rằng “Hôm nay ta hơi buồn vì năm mươi ngàn người thuộc bộ tộc của ta bị giết” (I am a little sad today because fifty thousand of my clans men were killed). Đức Phật đã không quá xúc động vì sự kiện này. Như vậy đó, ông thấy chứ (cười), đó là nghiệp quả của họ. Đức Phật không thể làm gì được cho họ cả. Những ý nghĩ như vậy làm cho tôi mạnh mẽ hơn và năng động hơn. Đây không phải là sự quẫn trí hay sự thoái chí khi đối diện với khổ đau vốn có ở trong bất cứ hoàn cảnh nào.
John Avedon: Tôi để ý thấy ngài làm vườn và sửa chữa những đồ điện tử để giải trí?
Dalai Lama: À, đó là những thú vui của tôi, để giết thời giờ ấy mà (cười). Khi thấy mình có thể sửa chữa được một món đồ gì đó thì tôi hài lòng thực sự. Hồi nhỏ tôi đã tháo tung những món đồ ra, vì tôi tò mò muốn biết những thứ máy móc đó hoạt động ra sao. Tôi muốn biết ở bên trong cái động cơ có cái gì. Nhưng bây giờ tôi chỉ tìm cách sửa những cái gì bị hỏng mà thôi.
John Avedon: Thế còn chuyện làm vườn?
Dalai Lama: Làm vườn ở Dharamsala là chuyện gần như bất khả. Dù cố gắng cách mấy thì mùa mưa đến mọi thứ cũng tiêu tan hết. Ông cũng biết đời sống tu sĩ là rất đáng hài lòng, rất hạnh phúc. Bằng chứng là những người hoàn tục nói rằng họ luyến tiếc giá trị của đời sống tu hành. Nhiều người đã nói với tôi rằng nếu không có sự tu hành thì đời sống sẽ rất khó khăn và phức tạp. Với vợ con, người ta có thể có hạnh phúc trong một thời gian nào đó. Nhưng về lâu về dài thì sẽ có những vấn đề tự nhiên xuất hiện. Người ta sẽ bị mất một nửa sự độc lập và tự do. Nếu khi từ bỏ sự độc lập của mình để nếm trải sự đời rắc rối mà có một lợi ích hay một ý nghĩa nào đó thì việc này cũng xứng đáng. Nếu đây là hoàn cảnh có ích lợi cho người khác thì như vậy cũng tốt. Sự rắc rối kia trở nên có giá trị, bằng ngược lại thì quả thật không xứng đáng để theo đuổi.
John Avedon: Nhưng nếu không có cha mẹ thì sẽ không có chúng ta ở đây để nói chuyện này.
Dalai Lama: Tôi không nói rằng có con cái là điều xấu, hay mọi người nên đi tu hết. Điều đó là bất khả (cười). Tôi nghĩ rằng nếu người ta sống một cách đơn giản thì sự thỏa mãn sẽ xuất hiện. Đơn sơ giản dị là nhân tố quan trọng đưa đến hạnh phúc của con người. Ít muốn, biết đủ và thỏa mãn những gì mình đang có, đó là điều quan trọng. Có bốn điều giúp người ta trở thành một người cao cả, đó là thỏa mãn với những thực phẩm nào mình có. Thỏa mãn với y phục bằng vải vụn, hay chấp nhận bất cứ một thứ y phục nào, không muốn những y phục cầu kỳ hay màu sắc rực rỡ. Thỏa mãn với chỗ ở và vừa đủ để trú nắng mưa, và sau cùng là hoan hỷ từ bỏ trạng thái tâm mê muội và gây dựng những trạng thái tâm tỉnh thức trong thiền định.
Nguồn: http://www.quangduc.com
Chủ Nhật, 26 tháng 8, 2012
Vua A-Dục
Thích Nguyên Tạng
“Chỉ có sự chiến thắng của Ðạo Pháp mới thực là một cuộc chiến thắng vô thượng; ai ai cũng nhờ cuộc chiến thắng ấy mà được an cư lạc nghiệp”. Đó là lời tuyên bố của Ðại đế A Dục (Asoka) sau khi ông trở về với Phật Giáo. “Trong lịch sử của thế giới có hàng ngàn vị vua và đại đế tự xưng là 'ngôi cao’, 'hoàng đế’, 'quốc vương’ v.v. Họ chỉ bừng sáng trong chốc lát rồi nhanh chóng lụi tàn. Nhưng Vua A Dục vẫn tỏa sáng và tỏa sáng như một ngôi sao sáng, cho đến tận ngày hôm nay” (In the history of the world there have been thousands of kings and emperors who called themselves 'Their Highnesses', 'Their Majesties' and 'Their Exalted Majesties' and so on. They shone for a brief moment, and as quickly disappeared. But Ashoka shines and shines brightly like a bright star, even unto this day).” Truyền thuyết kể rằng, trên đường du hóa, Đức Phật Thích Ca gặp một cậu bé con nhà trâm anh ngồi giữa đường nhồi đất sét nặn giả làm thành trì sông núi. Cậu bé đem dâng cúng tất cả thành trì này cho Phật bằng cách bỏ hết vào bình bát của Ngài(mà, trong trò chơi cậu ta tưởng tượng như là thức ăn) lên Phật Thích-ca Mâu-ni, đạt được công đức, mà Phật Thích-ca Mâu-ni tiên tri rằng cậu sẽ thống lĩnh Ấn Độ và là một ông vua tích cực hộ trì Phật Pháp. Kỳ diệu thay, hai trăm năm sau Phật nhập Niết bàn, cậu bé cúng dường đất sét năm xưa, nay tái sinh làm hoàng tử, rồi trở thành Vua A Dục, người về sau chinh phục bằng bàn tay sắt đẫm máu, cuối cùng trở thành đại đế của một cõi Ấn Độ, người đã từng được miêu tả như là "A Dục bạo chúa" (Chandashoka), và cũng là một "A Dục sùng đạo(Dharmashoka).
Hoàng Đế A Dục, vị vua thứ ba của triều đại Mauryan, Ấn Độ, sinh năm 304 trước Tây Lịch (TTL) tại Thành Hoa Thị, kinh đô Ma Kiệt Đà, ông vốn là con cháu 9 đời của Vua Tần Bà Sa La. Vua A Dục lên ngôi lúc 35 tuổi (năm 269 TTL), trị vì được 38 năm và mất năm 232 TTL, thọ thế 73 tuổi. Ông được xem là ông vua vĩ đại nhất của quốc gia Ấn Độ, và là vị hoàng đế đầu tiên đã cai trị một đế chế rộng lớn từ 273 đến 232 TTL. Lúc còn là một hoàng tử, Vua A Dục luôn xuất sắc cả trong quân sự lẫn các môn học khác. Khi trưởng thành thì như một vị tướng cầm quân thông minh và chưa bao giờ nếm mùi thất bại. Sau khi lên ngôi, vua A Dục đã mở ra những cuộc xâm lăng và mở rộng bờ cõi của mình trong tám năm sau đó, để rồi sở hữu một đế quốc rộng lớn từ Ấn Độ ngày nay, Pakistan, Bangladesh cho đến các vùng đất Afghanistan và Iran. Cố nhiên, hệ quả của những cuộc chinh phạt này là những cuộc chiến tranh chết chóc và đẫm máu. Cuộc chiến cuối cùng do Vua A Dục cầm quân đã diễn ra tại Kalinga, nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ (ngày nay là Orissa). Kết cuộc là Kalinga bị chiếm đoạt và tiêu diệt, khoảng 10 ngàn quân của vua A Dục thiệt mạng nhưng có đến 100,000 người phía Kalinga đã bị giết một cách dã man và 150.000 người bị bắt làm tù binh. May mắn và kỳ diệu thay, sau cuộc chiến khốc liệt này, dù đang ở trên đỉnh cao của địa vị thống lãnh sơn hà đại địa của một cõi Ấn Độ, nhưng A Dục Vương đã nhận ra sai lầm của mình, ngai vàng này, giang sơn này đã có được từ sự tham lam, hung bạo và tàn sát của mình, chính nó được thiết lập bằng thảm hoạ của chiến tranh, từ thương vong tang tóc, từ máu đổ thịt rơi cho hàng vạn người dân vô tội, nên ông đã quyết tâm trở về con đường thiện lành như người xưa từng nói “ phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”, quăng bỏ con dao, ngay đó thành Phật. Thật vậy, Vua A Dục đã cải tà quy chánh, trở về con đường thiện lành, quy y Tam Bảo và nhanh chóng trở thành một ông vua hộ trì Phật Giáo một cách thành tín trong phần đời còn lại của mình. Ông đã lập nhiều bia đá, trụ đá tại những thánh tích nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng đi qua, chính vì thế mà tên tuổi của ông luôn gắn liền với lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
Vua A Dục tánh tình nóng nảy và bạo tàn, đến nỗi giết sạch những vị đại thần và thân quyến trước khi lên ngôi. Mặc khác Vua A Dục còn lập ra một chỗ gọi là: “Ái Lạc Viên”, thực ra đó là một “Ðịa ngục ở trần gian”, bên ngoài trang trí cực kỳ đẹp đẽ với ao sen, hòn non bộ, hoa thơm cỏ lạ, để cho nhân dân mặc tình đến đó mà thưởng thức giải trí, nhưng bên trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạc dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình con người một cách ghê gớm. Hễ người nào đi lạc vào bên trong vườn Ái lạc đó, thì ngục tốt bắt giam và hành hình. Những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ, xung đột với nhau, cũng bị bắt đem vào cho chủ ngục phân xử. Thật là một thảm trạng thống khổ của nhân gian, không thể kể xiết. Rồi một ngày nọ có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì không thông thạo đường xá nên lạc vào “Ái Lạc Viên”. Nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục, Tỳ kheo hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt lại. Thầy van nài mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn khóc òa. Chủ ngục thấy vậy liền hỏi: “Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến nỗi khóc như con nít vậy?”. Thầy Tỳ kheo đáp: “Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, vì sợ mất sự lợi ích cả một đời người của tôi, nên mới bi ai như thế?”.Chủ ngục lại hỏi “Sự lợi ích ra làm sao, Thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?” – “Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghĩ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy bỏ thân mạng, thì còn đâu mà tu học nữa, mà không tu học thì còn biết cơ hội nào để đạt được giải thoát và giác ngộ, do vậy mà tôi mới khóc, chứ tôi nào có sợ chết”. Thầy Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin dung thứ cho Thầy sống sót trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình sau đó cũng không muộn. Chủ ngục thấy người tu hành, cũng động tâm, nên y theo lời của Thầy cầu xin mà đình lại bảy ngày mới toan hạ thủ. Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy những hình phạt rất độc ác: nào là người phụ nữ thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết, xương tan thịt nát, xem rất ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt trần, cũng bị quăng vào lò lửa, đứa thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng. Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sanh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: “Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài”. Nhờ quán tưởng đến lời Phật dạy như thế mà Thầy tỏ ngộ, dứt hết các đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Hán. Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt Thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn không nóng. Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối chất thêm củi và chụm thêm vào mãi, nhưng khi xem lại trong chảo dầu vẫn thấy Thầy Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem dáng vẻ tự nhiên không hề lay động chút nào cả. Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A Dục rõ. Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái lạc. Vua vào đến nơi, thì thấy Thầy Tỳ kheo bay lên giữa hư không, biến đủ 18 phép thần thông, trên người phun nước, bên dưới thì lửa cháy rần rần.Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: “Mình với Thầy Tỳ kheo này cũng đồng là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!”. Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng: “Ngưỡng mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ đây về sau bỏ dữ làm lành mà quy y với Ngài”. Vị Tỳ kheo đáp: “Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà biết quy hướng về Tam Bảo thì đó là phúc đức của muôn dân”. Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá. Từ đó về sau, Vua trở về quy y Tam Bảo, bỏ ác làm lành, và tâm tánh từ bi, cứu người thương vật, nên được người đời ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương. Về sau lại nhờ Tổ Ưu Ba Cúc Ða (Upagupta)giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo.
Có thể nói Vua A Dục là nhà chiêm bái Phật tích đầu tiên và là người có công để lại những dấu vết về những Phật tích ấy. Vào năm thứ 20 của triều đại của mình, Vua A Dục đã cầu thỉnh Ngài Ưu Ba Cúc Đa đưa đi chiêm bái hết tất cả những Phật tích tại Ấn Độ. Vua A Dục cùng với hoàng gia Khổng Tước dưới sự hướng dẫn của Ngài Ưu Ba Cúc Đa đã thực hiện chuyến đi chiêm bái này trong vòng 265 ngày để đến tận nơi và chiêm bái hết tất cả những thánh tích tại Ấn Độ, từ Lâm Tỳ Ni cho đến Câu Thi Na, tại mỗi thánh tích vua A Dục đều cho xây dựng bảo tháp, bia đá và trụ đá để đánh dấu nơi mà Đức Phật đã từng lưu trú và thuyết giảng lúc còn tại thế. Chính nhờ những trụ đá, bia đá này mà ngày nay hàng đệ tử Phật mới biết chính xác về các Phật tích. Theo truyền thuyết kể rằng Vua A Dục đã thu nhặt được xá lợi của Đức Phật từ bảy hoặc tám bảo tháp nguyên thủy, và sau đó được phân chia và cho xây dựng 84.000 bảo tháp nhỏ trên toàn vương quốc để tôn thờ.
Nếu như triều đại A Dục đã nhanh chóng lụi tàn và lãng quên trong lịch sử Ấn Độ năm mươi năm sau đó, thì chính những bia đá, trụ đá của vua A Dục đã để lại những dấu vết không bao giờ bị xóa nhòa. Những chứng tích của vị vua khôn ngoan này đã được các nhà khảo cổ khai quật và tìm thấy rải rác trên khắp Ấn Độ cũng như ở các quốc gia Nepal, Pakistan và Afghanistan. Những trụ đá này được điêu khắc một cách tinh xảo đầy mỹ thuật; trên đó những lời Phật dạy được gìn giữ một cách cẩn thận để nhân dân có thể học hỏi và áp dụng vào đời sống của họ. Những gì mà Vua A Dục để lại là chữ viết, một đóng góp sớm nhất của nền văn minh thung lũng Ấn hà, một loại cổ ngữ của Harrapa, xưa hơn cả cổ ngữ Sanskrit, loại ngôn ngữ thường thấy ở các trụ đá mà ngày nay gọi là Prakrita. Ngoài những bài kinh Phật, các bản dịch sớm nhất từ các trụ đá, bia đá cho ta thấy nỗ lực của một vị quân vương hùng mạnh đã kiến thiết một quốc gia dựa trên nền tảng đạo đức Phật Giáo với một chính sách an dân vượt lên trên mọi căn bệnh tham lam, sân hận và si mê của kiếp người. Đặc biệt qua những trụ đá, bia đá này, ta thấy Vua A Dục là một Phật tử thuần thành, thấm nhuần giáo lý Phật Đà, thực hành lời Phật dạy và đạt được những lợi ích thiết thực cho chính bản thân của ông, cuối cùng ông muốn đem sự lợi ích đó để chia sẻ với mọi con dân trong quốc độ của ông, bằng cách ra lệnh cho khắc huấn dụ của mình lên vách đá khắp nơi rằng“nếu quần chúng sau khi nghe được lời Phật dạy, thực hành, sẽ đạt được lợi ích trong Chánh Pháp”.
Quả thật vậy, hầu hết trên những bia ký và trụ đá, vua A Dục đã khuyến tấn người dân nên áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày của mình thì sẽ được an lạc và hạnh phúc ngay trong hiện tại. Vua khuyên người dân thực hành “không sát sanh, hiếu kính cha mẹ và các bậc trưởng thượng, tôn trọng thầy cô giáo, cung kính cúng dường các Sa Môn, Bà La Môn, xử sự tốt với thân bằng quyến thuộc, chia sẻ với bạn bè, đối đãi nhân hậu với kẻ làm công, người giúp việc, giúp đỡ người già, người nghèo khó, kẻ khổ đau”. Ngoài ra trong một bia ký khác, vua A Dục đã cho khắc bản Kinh Chân Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta), đây là một bản kinh mà Phật dạy về đời sống đạo đức của hàng Phật tử tại gia, nếu áp dụng đúng thì hạnh phúc sẽ đến họ ngay trong đời sống hiện tại này: “Kẻ si mê nên tránh, bậc hiền đức phải gần ; Chọn nơi lành mà ở và luôn giữ lòng thẳng ngay; Hiểu rộng và khéo tay, giữ tròn các giới luật, nói lời hòa ái; Cung dưỡng cha mẹ già, yêu mến vợ /chồng và con, không vương vấn phiền hà; Bố thí, giúp đỡ bà con, hành động không chê trách; Ngăn trừ điều ác xấu, dứt bỏ thói rượu chè, siêng năng trong Chánh Ðạo; Kính nhường và khiêm tốn, biết đủ và nhớ ơn, tùy thời học đạo lý; Nhẫn nhục vâng ý lành, viếng thăm bậc tu hành, tùy thời bàn luận đạo; Trong sạch và siêng năng, suốt thông các chân lý, thực hiện vui Niết Bàn; Tiếp xúc với thế gian, giữ lòng không sa ngã, không sầu nhiễm bình an”.
Tại thánh tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng trần. Vua A Dục đã cho dựng một trụ đá cao 15 mét, hiện nay vẫn còn tại thánh tích này, có thể nói đây là trụ đá còn nguyên vẹn, được bao bọc bởi một hàng rào sắt để bảo hộ. Trên trụ đá này vẫn còn thấy hàng chữ như sau: "Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Priyadarsi (Vương hiệu của Vua A Dục), người được chư thiên yêu mến, đã thân hành viếng thăm và lễ bái nơi đây, bởi vì chính tại nơi này Ðức Phật Thích Ca đã được ra đời". (Twenty years after his coronation, King Priyadarsi, Beloved of the Gods, visited this place himself and worshipped here saying, here Buddha Sakyamuni was born).
Tại Vườn Lộc Uyển (Sanarth), nơi Đức Thế Tôn lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp đầu tiên, vua A Dục cũng đã đến chiêm bái và cho dựng một trụ đá rất lớn (đường kính 7 tấc, cao 15,25 mét) để đánh dấu nơi Đức Thế Tôn thiết lập Tam Bảo, mở đầu công cuộc truyền bá Chánh Pháp. Nghiệt ngã thay, trụ đá này đã bị quân Hồi Giáo của Mohammed Ghori xâm lăng và hủy diệt, trụ đá bị xô ngã và gãy thành nhiều khúc, chôn vùi dưới lòng đất cho đến khi nhà khảo cổ Kittoe đào bới lên vào năm 1934. Hiện phần trên của trụ đá với bốn con sư tử còn nguyên vẹn, nhưng được chính phủ Ấn Độ cho đem trưng bày trong Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Lộc Uyển, còn năm khúc gãy khác được tôn trí ngay tại địa điểm khai quật (trong khuôn viên Vườn Lộc Uyển) dưới một mái che và bao bọc bởi một hàng rào sắt để gìn giữ bảo vật vô giá này, phần dưới trụ đá, có khắc hàng chữ bằng tiếng Brahmi: "Ðấng Thiên Nhơn sư đã dạy rằng: Giáo hội Tăng Ni không được chia rẽ. Nếu có vị Tỳ-kheo nào phá hoại Giáo hội, vị ấy phải mặc đại y và ở tại một chỗ thanh tịnh chí thành sám hối” … “Hàng cư sĩ tại gia mỗi ngày rằm hay mùng một phải đến dự họp kiểm thảo nhau để thêm phần tinh tấn về đạo nghiệp. Và các ngày lễ Phật, các quan chức phải đến dự lễ để được thêm phần tin tưởng về đạo đức. Các cấp quận, huyện, xã dù xa xôi thế nào, cũng phải truyền rộng chỉ thị này theo đúng nghĩa của nó cho dân chúng tuân theo".
Tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali), một thành phố quan trọng vào buổi đầu Phật giáo, nơi Đức Phật cho phép hàng nữ giới xuất gia, là quê hương của Cư Sĩ Duy Ma Cật, nơi Tôn Giả A Nan nhập niết bàn, hiện là Basarh cách Patna khoảng hơn 20 dặm về phía tây bắc, giữa sông Hằng và rặng Tuyết Sơn. Ngay bên cạnh Bảo Tháp tưởng niệm tôn giả A Nan, còn một trụ đá do Vua A Dục dựng lên để tưởng nhớ đến công đức hoằng pháp của Đức Phật tại nơi này. Hiện tại trụ đá tròn cao khoảng 10 thước, trơn láng, trên đầu có hình một con sư tử, dù không đẹp bằng trụ đá sư tử bốn đầu ở Sarnath, Vườn Lộc Uyển, nhưng vẫn còn nguyên vẹn trên đầu trụ đá.
Trong khi đó, tại Sanchi, một thành phố miền trung Ấn Ðộ, cách Bom Bay khoảng 549 dặm, một địa điểm ít khi được nhắc đến trong văn học Phật giáo, nhưng ngạc nhiên thay, chính Vua A Dục đã cho xây dựng một tu viện và một Ðại Bảo Tháp tại nơi này với lối kiến trúc lộng lẫy và đẹp mắt. Đáng chú nhất là trên cổng vào Ðại Tháp, có một bản chạm nổi hiếm thấy, mô tả sự chiêm bái của vua A Dục trước cội Bồ Ðề ở Bodhgaya. Tại sao Sanchi là nơi Đức Thế Tôn chưa từng đi qua mà lại có thánh tích này? Đơn giản là vì Sanchi vốn là quê vợ của Vua A Dục. Khi chưa lên ngôi, ông từng làm phó vương ở đây và kết hôn với bà Devi ở Vedisa, một thị trấn cách Sanchi khoảng vài dặm, do vậy mà đức vua muốn biến nơi đây thành một trung tâm sinh hoạt Phật Giáo để mang ánh sáng giác ngộ đến cho người dân ở ngôi làng này. Điều đặc biệt là ở Sanchi có rất nhiều trụ đá do Vua A Dục dựng tại khu thánh tích này. Hiện còn một Đại Bảo Tháp và một trụ đá khác do vua A Dục dựng lên tại cửa phía nam của ngôi Ðại tháp nhưng chỉ còn thân trụ và bảng đá, vì trụ đá này đã bị một người tên là Semindar phá hủy để làm dụng cụ ép mía đường.
Vào khoảng 218 năm, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn tức là năm 254 TTL, Phật Giáo Ấn Độ vì được ủng hộ nhiệt tâm của Vua A Dục, dành mọi sự ưu đãi, tạo mọi điều kiện dễ dãi đối với tăng ni, từ vật chất đến tinh thần, đến nỗi có quá nhiều kẻ đã lợi dụng thời cơ này để mượn đạo tạo đời, kẻ ngoại đạo trà trộn vào hàng tăng chúng, tạo ra sự lũng đoạn về mặt sinh hoạt tu học, gây nhiều mối phân tranh, bất hòa hợp trong tăng chúng. Vua A Dục muốn chấn chỉnh lại đạo Phật nên ngài đã mở cuộc khảo hạch Tăng già và đuổi ra khỏi giáo đoàn những người không thông thuộc giáo lý. Đức Vua đã cung thỉnh Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa), vốn là người đã đắc tam minh, chứng đạt A la hán, làm chủ tọa và triệu tập 999 Tỳ kheo làu thông Tam Tạng, để cùng tham dự Đại Hội kết tập Kinh Điển tại Hoa Thị Thành, nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị A La hán. Kỳ kết tập nầy Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu đưa ra "Thuyết sự”(Kathàvattnu), do chính ngài biên soạn, để giải thích và phân biệt rõ ràng về luận lý giữa ngoại đạo với Phật Giáo, tài liệu này sau đó được đưa vào Luận Tạng. Lần kết tập kỳ III kéo dài trong 9 tháng, kết quả là Phật pháp trở lại thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được dẹp trừ.
Theo sau cuộc Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (năm 254 TTL), Vua A Dục đã cử nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài như Tích Lan, Miến Điện, Mã Lai và Sumatra. Ngoài việc chăm lo đời sống ấm no cho người dân, thương dân như con cái, Vua A Dục còn chăm lo truyền bá ánh sáng của Chánh Pháp đến cho dân chúng trong và ngoài xứ Ấn. Vua A Dục đã hướng dẫn hai người con hoàng thái tử Mahinda (Ma Thẩn Ðà) và công chúa Singhamiha xuất gia làm tăng ni, gia nhập tăng đoàn tu học và sau đó được gởi sang Tích Lan để hoằng pháp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TTL. Phái đoàn hoằng pháp do ĐĐ Mahinda và Sư Cô Singhamiha dẫn đầu đến Tích Lan để truyền đạo, đã mang theo ba tạng kinh điển và một cây Bồ Đề để trồng tại Tích Lan, cây Bồ Đề này hiện nay vẫn còn và là một biểu tượng thiêng liêng cao quý đối với Phật tử Tích Lan. Phái đoàn hoằng pháp này đã thành công khi cảm hóa được đức vua Tích Lan là Devanampiya Tissa tin theo Phật Pháp và trở thành người hộ trì Chánh Pháp tại Tích Lan qua việc phát tâm xây dựng một Đại Tự (Mahavihara) ở thủ đô Anuradhapura, mở đầu cho việc truyền bá ánh sáng Chánh Pháp trên xứ sở này, để rồi sau đó Phật Pháp được lan tỏa đi Miến Điện,Thái Lan và những quốc gia Á Châu khác.
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo, một quân vương hộ trì Phật Pháp, ông đã làm hết mọi khả năng của mình để mang ánh sáng của trí tuệ và từ bi của Phật Giáo đến cho muôn loài. Việc ông cho xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp để thờ xá lợi Phật trên khắp vương quốc để tương xứng với 84.000 pháp môn tu trong giáo lý Phật Đà, là một trong những nỗ lực gây sự chú ý của quần chúng vào Đạo Phật để họ quy ngưỡng về con đường lành, để tu tập, để đạt được giác ngộ và giải thoát.
Tấm gương bảo vệ và phát triển Chánh Pháp của A Dục Vương luôn tỏa chiếu sáng ngời đến khắp thế giới. Nhiều bậc quân vương Phật tử đã tiếp tục đi theo bước chân hào hùng của A Dục Vương, như Lương Võ Đế của Trung Hoa, Thánh Đức Thái Tử của Nhật Bản, Trần Nhân Tông của Việt Nam, Bhumibol của Thái Lan và hy vọng rằng sẽ có nhiều ông vua khác trong tương lai cũng sẽ kế thừa được công hạnh này.
Một niềm tự hào và hãnh diện khác là sau hơn hai ngàn năm trăm năm sau, những đóng góp của Vua A Dục vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của người dân Ấn Độ nói riêng và Phật giáo nói chung. Đáng chú ý nhất là quốc huy và quốc kỳ của Ấn Độ. Hiện nay quốc huy của đất nước này chính là bản sao của Trụ đá Vua A Dục tại Vườn Lộc Uyển, còn quốc kỳ thì lấy Bánh Xe Pháp Luân (Dharmachakra) của Phật Giáo làm biểu tượng chính. Nếu triều đại của A Dục Vương đã dễ dàng biến mất vào sự lãng quên của lịch sử, thì chính trụ đá và bánh xe chuyển pháp luân ở vườn Lộc Uyển của Vua A Dục vẫn là biểu tượng quen thuộc đối với một tỷ mốt người dân Ấn kể từ năm 1947. Nguyện cầu cho bánh xe Chánh Pháp sẽ lăn chuyển mãi về sau để mang ánh sáng giác ngộ từ bi và trí tuệ của Đức Phật đến cho mọi người mọi nhà.
Nguồn: www.quangduc.com
“Chỉ có sự chiến thắng của Ðạo Pháp mới thực là một cuộc chiến thắng vô thượng; ai ai cũng nhờ cuộc chiến thắng ấy mà được an cư lạc nghiệp”. Đó là lời tuyên bố của Ðại đế A Dục (Asoka) sau khi ông trở về với Phật Giáo. “Trong lịch sử của thế giới có hàng ngàn vị vua và đại đế tự xưng là 'ngôi cao’, 'hoàng đế’, 'quốc vương’ v.v. Họ chỉ bừng sáng trong chốc lát rồi nhanh chóng lụi tàn. Nhưng Vua A Dục vẫn tỏa sáng và tỏa sáng như một ngôi sao sáng, cho đến tận ngày hôm nay” (In the history of the world there have been thousands of kings and emperors who called themselves 'Their Highnesses', 'Their Majesties' and 'Their Exalted Majesties' and so on. They shone for a brief moment, and as quickly disappeared. But Ashoka shines and shines brightly like a bright star, even unto this day).” Truyền thuyết kể rằng, trên đường du hóa, Đức Phật Thích Ca gặp một cậu bé con nhà trâm anh ngồi giữa đường nhồi đất sét nặn giả làm thành trì sông núi. Cậu bé đem dâng cúng tất cả thành trì này cho Phật bằng cách bỏ hết vào bình bát của Ngài(mà, trong trò chơi cậu ta tưởng tượng như là thức ăn) lên Phật Thích-ca Mâu-ni, đạt được công đức, mà Phật Thích-ca Mâu-ni tiên tri rằng cậu sẽ thống lĩnh Ấn Độ và là một ông vua tích cực hộ trì Phật Pháp. Kỳ diệu thay, hai trăm năm sau Phật nhập Niết bàn, cậu bé cúng dường đất sét năm xưa, nay tái sinh làm hoàng tử, rồi trở thành Vua A Dục, người về sau chinh phục bằng bàn tay sắt đẫm máu, cuối cùng trở thành đại đế của một cõi Ấn Độ, người đã từng được miêu tả như là "A Dục bạo chúa" (Chandashoka), và cũng là một "A Dục sùng đạo(Dharmashoka).
Hoàng Đế A Dục, vị vua thứ ba của triều đại Mauryan, Ấn Độ, sinh năm 304 trước Tây Lịch (TTL) tại Thành Hoa Thị, kinh đô Ma Kiệt Đà, ông vốn là con cháu 9 đời của Vua Tần Bà Sa La. Vua A Dục lên ngôi lúc 35 tuổi (năm 269 TTL), trị vì được 38 năm và mất năm 232 TTL, thọ thế 73 tuổi. Ông được xem là ông vua vĩ đại nhất của quốc gia Ấn Độ, và là vị hoàng đế đầu tiên đã cai trị một đế chế rộng lớn từ 273 đến 232 TTL. Lúc còn là một hoàng tử, Vua A Dục luôn xuất sắc cả trong quân sự lẫn các môn học khác. Khi trưởng thành thì như một vị tướng cầm quân thông minh và chưa bao giờ nếm mùi thất bại. Sau khi lên ngôi, vua A Dục đã mở ra những cuộc xâm lăng và mở rộng bờ cõi của mình trong tám năm sau đó, để rồi sở hữu một đế quốc rộng lớn từ Ấn Độ ngày nay, Pakistan, Bangladesh cho đến các vùng đất Afghanistan và Iran. Cố nhiên, hệ quả của những cuộc chinh phạt này là những cuộc chiến tranh chết chóc và đẫm máu. Cuộc chiến cuối cùng do Vua A Dục cầm quân đã diễn ra tại Kalinga, nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ (ngày nay là Orissa). Kết cuộc là Kalinga bị chiếm đoạt và tiêu diệt, khoảng 10 ngàn quân của vua A Dục thiệt mạng nhưng có đến 100,000 người phía Kalinga đã bị giết một cách dã man và 150.000 người bị bắt làm tù binh. May mắn và kỳ diệu thay, sau cuộc chiến khốc liệt này, dù đang ở trên đỉnh cao của địa vị thống lãnh sơn hà đại địa của một cõi Ấn Độ, nhưng A Dục Vương đã nhận ra sai lầm của mình, ngai vàng này, giang sơn này đã có được từ sự tham lam, hung bạo và tàn sát của mình, chính nó được thiết lập bằng thảm hoạ của chiến tranh, từ thương vong tang tóc, từ máu đổ thịt rơi cho hàng vạn người dân vô tội, nên ông đã quyết tâm trở về con đường thiện lành như người xưa từng nói “ phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật”, quăng bỏ con dao, ngay đó thành Phật. Thật vậy, Vua A Dục đã cải tà quy chánh, trở về con đường thiện lành, quy y Tam Bảo và nhanh chóng trở thành một ông vua hộ trì Phật Giáo một cách thành tín trong phần đời còn lại của mình. Ông đã lập nhiều bia đá, trụ đá tại những thánh tích nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng đi qua, chính vì thế mà tên tuổi của ông luôn gắn liền với lịch sử Phật giáo Ấn Độ.
Vua A Dục tánh tình nóng nảy và bạo tàn, đến nỗi giết sạch những vị đại thần và thân quyến trước khi lên ngôi. Mặc khác Vua A Dục còn lập ra một chỗ gọi là: “Ái Lạc Viên”, thực ra đó là một “Ðịa ngục ở trần gian”, bên ngoài trang trí cực kỳ đẹp đẽ với ao sen, hòn non bộ, hoa thơm cỏ lạ, để cho nhân dân mặc tình đến đó mà thưởng thức giải trí, nhưng bên trong, thì có non đao rừng kiếm, lò lửa vạc dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình con người một cách ghê gớm. Hễ người nào đi lạc vào bên trong vườn Ái lạc đó, thì ngục tốt bắt giam và hành hình. Những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ, xung đột với nhau, cũng bị bắt đem vào cho chủ ngục phân xử. Thật là một thảm trạng thống khổ của nhân gian, không thể kể xiết. Rồi một ngày nọ có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì không thông thạo đường xá nên lạc vào “Ái Lạc Viên”. Nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục, Tỳ kheo hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt lại. Thầy van nài mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn khóc òa. Chủ ngục thấy vậy liền hỏi: “Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến nỗi khóc như con nít vậy?”. Thầy Tỳ kheo đáp: “Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, vì sợ mất sự lợi ích cả một đời người của tôi, nên mới bi ai như thế?”.Chủ ngục lại hỏi “Sự lợi ích ra làm sao, Thầy bày tỏ cho tôi nghe thử?” – “Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghĩ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy bỏ thân mạng, thì còn đâu mà tu học nữa, mà không tu học thì còn biết cơ hội nào để đạt được giải thoát và giác ngộ, do vậy mà tôi mới khóc, chứ tôi nào có sợ chết”. Thầy Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin dung thứ cho Thầy sống sót trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình sau đó cũng không muộn. Chủ ngục thấy người tu hành, cũng động tâm, nên y theo lời của Thầy cầu xin mà đình lại bảy ngày mới toan hạ thủ. Ngày đầu, thầy Tỳ kheo nhìn thấy những hình phạt rất độc ác: nào là người phụ nữ thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết, xương tan thịt nát, xem rất ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt trần, cũng bị quăng vào lò lửa, đứa thì rút tay co cổ, đứa thì hả miệng nhăn răng. Thầy Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sanh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: “Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nhóm, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài”. Nhờ quán tưởng đến lời Phật dạy như thế mà Thầy tỏ ngộ, dứt hết các đều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Hán. Ðến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt Thầy đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn không nóng. Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối chất thêm củi và chụm thêm vào mãi, nhưng khi xem lại trong chảo dầu vẫn thấy Thầy Tỳ kheo ngồi kiết già trên hoa sen, xem dáng vẻ tự nhiên không hề lay động chút nào cả. Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu tự sự cho vua A Dục rõ. Vua tánh nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái lạc. Vua vào đến nơi, thì thấy Thầy Tỳ kheo bay lên giữa hư không, biến đủ 18 phép thần thông, trên người phun nước, bên dưới thì lửa cháy rần rần.Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: “Mình với Thầy Tỳ kheo này cũng đồng là loài người, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác!”. Vua nghĩ như thế nên vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng: “Ngưỡng mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ đây về sau bỏ dữ làm lành mà quy y với Ngài”. Vị Tỳ kheo đáp: “Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà biết quy hướng về Tam Bảo thì đó là phúc đức của muôn dân”. Thầy Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà trở về tịnh xá. Từ đó về sau, Vua trở về quy y Tam Bảo, bỏ ác làm lành, và tâm tánh từ bi, cứu người thương vật, nên được người đời ca tụng là Ðạt Ma A Dục Vương. Về sau lại nhờ Tổ Ưu Ba Cúc Ða (Upagupta)giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo.
Có thể nói Vua A Dục là nhà chiêm bái Phật tích đầu tiên và là người có công để lại những dấu vết về những Phật tích ấy. Vào năm thứ 20 của triều đại của mình, Vua A Dục đã cầu thỉnh Ngài Ưu Ba Cúc Đa đưa đi chiêm bái hết tất cả những Phật tích tại Ấn Độ. Vua A Dục cùng với hoàng gia Khổng Tước dưới sự hướng dẫn của Ngài Ưu Ba Cúc Đa đã thực hiện chuyến đi chiêm bái này trong vòng 265 ngày để đến tận nơi và chiêm bái hết tất cả những thánh tích tại Ấn Độ, từ Lâm Tỳ Ni cho đến Câu Thi Na, tại mỗi thánh tích vua A Dục đều cho xây dựng bảo tháp, bia đá và trụ đá để đánh dấu nơi mà Đức Phật đã từng lưu trú và thuyết giảng lúc còn tại thế. Chính nhờ những trụ đá, bia đá này mà ngày nay hàng đệ tử Phật mới biết chính xác về các Phật tích. Theo truyền thuyết kể rằng Vua A Dục đã thu nhặt được xá lợi của Đức Phật từ bảy hoặc tám bảo tháp nguyên thủy, và sau đó được phân chia và cho xây dựng 84.000 bảo tháp nhỏ trên toàn vương quốc để tôn thờ.
Nếu như triều đại A Dục đã nhanh chóng lụi tàn và lãng quên trong lịch sử Ấn Độ năm mươi năm sau đó, thì chính những bia đá, trụ đá của vua A Dục đã để lại những dấu vết không bao giờ bị xóa nhòa. Những chứng tích của vị vua khôn ngoan này đã được các nhà khảo cổ khai quật và tìm thấy rải rác trên khắp Ấn Độ cũng như ở các quốc gia Nepal, Pakistan và Afghanistan. Những trụ đá này được điêu khắc một cách tinh xảo đầy mỹ thuật; trên đó những lời Phật dạy được gìn giữ một cách cẩn thận để nhân dân có thể học hỏi và áp dụng vào đời sống của họ. Những gì mà Vua A Dục để lại là chữ viết, một đóng góp sớm nhất của nền văn minh thung lũng Ấn hà, một loại cổ ngữ của Harrapa, xưa hơn cả cổ ngữ Sanskrit, loại ngôn ngữ thường thấy ở các trụ đá mà ngày nay gọi là Prakrita. Ngoài những bài kinh Phật, các bản dịch sớm nhất từ các trụ đá, bia đá cho ta thấy nỗ lực của một vị quân vương hùng mạnh đã kiến thiết một quốc gia dựa trên nền tảng đạo đức Phật Giáo với một chính sách an dân vượt lên trên mọi căn bệnh tham lam, sân hận và si mê của kiếp người. Đặc biệt qua những trụ đá, bia đá này, ta thấy Vua A Dục là một Phật tử thuần thành, thấm nhuần giáo lý Phật Đà, thực hành lời Phật dạy và đạt được những lợi ích thiết thực cho chính bản thân của ông, cuối cùng ông muốn đem sự lợi ích đó để chia sẻ với mọi con dân trong quốc độ của ông, bằng cách ra lệnh cho khắc huấn dụ của mình lên vách đá khắp nơi rằng“nếu quần chúng sau khi nghe được lời Phật dạy, thực hành, sẽ đạt được lợi ích trong Chánh Pháp”.
Quả thật vậy, hầu hết trên những bia ký và trụ đá, vua A Dục đã khuyến tấn người dân nên áp dụng lời Phật dạy vào đời sống hằng ngày của mình thì sẽ được an lạc và hạnh phúc ngay trong hiện tại. Vua khuyên người dân thực hành “không sát sanh, hiếu kính cha mẹ và các bậc trưởng thượng, tôn trọng thầy cô giáo, cung kính cúng dường các Sa Môn, Bà La Môn, xử sự tốt với thân bằng quyến thuộc, chia sẻ với bạn bè, đối đãi nhân hậu với kẻ làm công, người giúp việc, giúp đỡ người già, người nghèo khó, kẻ khổ đau”. Ngoài ra trong một bia ký khác, vua A Dục đã cho khắc bản Kinh Chân Hạnh Phúc (Mahamangala Sutta), đây là một bản kinh mà Phật dạy về đời sống đạo đức của hàng Phật tử tại gia, nếu áp dụng đúng thì hạnh phúc sẽ đến họ ngay trong đời sống hiện tại này: “Kẻ si mê nên tránh, bậc hiền đức phải gần ; Chọn nơi lành mà ở và luôn giữ lòng thẳng ngay; Hiểu rộng và khéo tay, giữ tròn các giới luật, nói lời hòa ái; Cung dưỡng cha mẹ già, yêu mến vợ /chồng và con, không vương vấn phiền hà; Bố thí, giúp đỡ bà con, hành động không chê trách; Ngăn trừ điều ác xấu, dứt bỏ thói rượu chè, siêng năng trong Chánh Ðạo; Kính nhường và khiêm tốn, biết đủ và nhớ ơn, tùy thời học đạo lý; Nhẫn nhục vâng ý lành, viếng thăm bậc tu hành, tùy thời bàn luận đạo; Trong sạch và siêng năng, suốt thông các chân lý, thực hiện vui Niết Bàn; Tiếp xúc với thế gian, giữ lòng không sa ngã, không sầu nhiễm bình an”.
Tại thánh tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng trần. Vua A Dục đã cho dựng một trụ đá cao 15 mét, hiện nay vẫn còn tại thánh tích này, có thể nói đây là trụ đá còn nguyên vẹn, được bao bọc bởi một hàng rào sắt để bảo hộ. Trên trụ đá này vẫn còn thấy hàng chữ như sau: "Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Priyadarsi (Vương hiệu của Vua A Dục), người được chư thiên yêu mến, đã thân hành viếng thăm và lễ bái nơi đây, bởi vì chính tại nơi này Ðức Phật Thích Ca đã được ra đời". (Twenty years after his coronation, King Priyadarsi, Beloved of the Gods, visited this place himself and worshipped here saying, here Buddha Sakyamuni was born).
Tại Vườn Lộc Uyển (Sanarth), nơi Đức Thế Tôn lăn chuyển bánh xe Chánh Pháp đầu tiên, vua A Dục cũng đã đến chiêm bái và cho dựng một trụ đá rất lớn (đường kính 7 tấc, cao 15,25 mét) để đánh dấu nơi Đức Thế Tôn thiết lập Tam Bảo, mở đầu công cuộc truyền bá Chánh Pháp. Nghiệt ngã thay, trụ đá này đã bị quân Hồi Giáo của Mohammed Ghori xâm lăng và hủy diệt, trụ đá bị xô ngã và gãy thành nhiều khúc, chôn vùi dưới lòng đất cho đến khi nhà khảo cổ Kittoe đào bới lên vào năm 1934. Hiện phần trên của trụ đá với bốn con sư tử còn nguyên vẹn, nhưng được chính phủ Ấn Độ cho đem trưng bày trong Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Lộc Uyển, còn năm khúc gãy khác được tôn trí ngay tại địa điểm khai quật (trong khuôn viên Vườn Lộc Uyển) dưới một mái che và bao bọc bởi một hàng rào sắt để gìn giữ bảo vật vô giá này, phần dưới trụ đá, có khắc hàng chữ bằng tiếng Brahmi: "Ðấng Thiên Nhơn sư đã dạy rằng: Giáo hội Tăng Ni không được chia rẽ. Nếu có vị Tỳ-kheo nào phá hoại Giáo hội, vị ấy phải mặc đại y và ở tại một chỗ thanh tịnh chí thành sám hối” … “Hàng cư sĩ tại gia mỗi ngày rằm hay mùng một phải đến dự họp kiểm thảo nhau để thêm phần tinh tấn về đạo nghiệp. Và các ngày lễ Phật, các quan chức phải đến dự lễ để được thêm phần tin tưởng về đạo đức. Các cấp quận, huyện, xã dù xa xôi thế nào, cũng phải truyền rộng chỉ thị này theo đúng nghĩa của nó cho dân chúng tuân theo".
Tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali), một thành phố quan trọng vào buổi đầu Phật giáo, nơi Đức Phật cho phép hàng nữ giới xuất gia, là quê hương của Cư Sĩ Duy Ma Cật, nơi Tôn Giả A Nan nhập niết bàn, hiện là Basarh cách Patna khoảng hơn 20 dặm về phía tây bắc, giữa sông Hằng và rặng Tuyết Sơn. Ngay bên cạnh Bảo Tháp tưởng niệm tôn giả A Nan, còn một trụ đá do Vua A Dục dựng lên để tưởng nhớ đến công đức hoằng pháp của Đức Phật tại nơi này. Hiện tại trụ đá tròn cao khoảng 10 thước, trơn láng, trên đầu có hình một con sư tử, dù không đẹp bằng trụ đá sư tử bốn đầu ở Sarnath, Vườn Lộc Uyển, nhưng vẫn còn nguyên vẹn trên đầu trụ đá.
Trong khi đó, tại Sanchi, một thành phố miền trung Ấn Ðộ, cách Bom Bay khoảng 549 dặm, một địa điểm ít khi được nhắc đến trong văn học Phật giáo, nhưng ngạc nhiên thay, chính Vua A Dục đã cho xây dựng một tu viện và một Ðại Bảo Tháp tại nơi này với lối kiến trúc lộng lẫy và đẹp mắt. Đáng chú nhất là trên cổng vào Ðại Tháp, có một bản chạm nổi hiếm thấy, mô tả sự chiêm bái của vua A Dục trước cội Bồ Ðề ở Bodhgaya. Tại sao Sanchi là nơi Đức Thế Tôn chưa từng đi qua mà lại có thánh tích này? Đơn giản là vì Sanchi vốn là quê vợ của Vua A Dục. Khi chưa lên ngôi, ông từng làm phó vương ở đây và kết hôn với bà Devi ở Vedisa, một thị trấn cách Sanchi khoảng vài dặm, do vậy mà đức vua muốn biến nơi đây thành một trung tâm sinh hoạt Phật Giáo để mang ánh sáng giác ngộ đến cho người dân ở ngôi làng này. Điều đặc biệt là ở Sanchi có rất nhiều trụ đá do Vua A Dục dựng tại khu thánh tích này. Hiện còn một Đại Bảo Tháp và một trụ đá khác do vua A Dục dựng lên tại cửa phía nam của ngôi Ðại tháp nhưng chỉ còn thân trụ và bảng đá, vì trụ đá này đã bị một người tên là Semindar phá hủy để làm dụng cụ ép mía đường.
Vào khoảng 218 năm, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn tức là năm 254 TTL, Phật Giáo Ấn Độ vì được ủng hộ nhiệt tâm của Vua A Dục, dành mọi sự ưu đãi, tạo mọi điều kiện dễ dãi đối với tăng ni, từ vật chất đến tinh thần, đến nỗi có quá nhiều kẻ đã lợi dụng thời cơ này để mượn đạo tạo đời, kẻ ngoại đạo trà trộn vào hàng tăng chúng, tạo ra sự lũng đoạn về mặt sinh hoạt tu học, gây nhiều mối phân tranh, bất hòa hợp trong tăng chúng. Vua A Dục muốn chấn chỉnh lại đạo Phật nên ngài đã mở cuộc khảo hạch Tăng già và đuổi ra khỏi giáo đoàn những người không thông thuộc giáo lý. Đức Vua đã cung thỉnh Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu (Moggaliputta Tissa), vốn là người đã đắc tam minh, chứng đạt A la hán, làm chủ tọa và triệu tập 999 Tỳ kheo làu thông Tam Tạng, để cùng tham dự Đại Hội kết tập Kinh Điển tại Hoa Thị Thành, nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị A La hán. Kỳ kết tập nầy Ngài Mục Kiền Liên Đế Tu đưa ra "Thuyết sự”(Kathàvattnu), do chính ngài biên soạn, để giải thích và phân biệt rõ ràng về luận lý giữa ngoại đạo với Phật Giáo, tài liệu này sau đó được đưa vào Luận Tạng. Lần kết tập kỳ III kéo dài trong 9 tháng, kết quả là Phật pháp trở lại thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được dẹp trừ.
Theo sau cuộc Kết Tập Kinh Điển lần thứ 3 (năm 254 TTL), Vua A Dục đã cử nhiều phái đoàn hoằng pháp ra nước ngoài như Tích Lan, Miến Điện, Mã Lai và Sumatra. Ngoài việc chăm lo đời sống ấm no cho người dân, thương dân như con cái, Vua A Dục còn chăm lo truyền bá ánh sáng của Chánh Pháp đến cho dân chúng trong và ngoài xứ Ấn. Vua A Dục đã hướng dẫn hai người con hoàng thái tử Mahinda (Ma Thẩn Ðà) và công chúa Singhamiha xuất gia làm tăng ni, gia nhập tăng đoàn tu học và sau đó được gởi sang Tích Lan để hoằng pháp vào khoảng giữa thế kỷ thứ 3 TTL. Phái đoàn hoằng pháp do ĐĐ Mahinda và Sư Cô Singhamiha dẫn đầu đến Tích Lan để truyền đạo, đã mang theo ba tạng kinh điển và một cây Bồ Đề để trồng tại Tích Lan, cây Bồ Đề này hiện nay vẫn còn và là một biểu tượng thiêng liêng cao quý đối với Phật tử Tích Lan. Phái đoàn hoằng pháp này đã thành công khi cảm hóa được đức vua Tích Lan là Devanampiya Tissa tin theo Phật Pháp và trở thành người hộ trì Chánh Pháp tại Tích Lan qua việc phát tâm xây dựng một Đại Tự (Mahavihara) ở thủ đô Anuradhapura, mở đầu cho việc truyền bá ánh sáng Chánh Pháp trên xứ sở này, để rồi sau đó Phật Pháp được lan tỏa đi Miến Điện,Thái Lan và những quốc gia Á Châu khác.
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo, một quân vương hộ trì Phật Pháp, ông đã làm hết mọi khả năng của mình để mang ánh sáng của trí tuệ và từ bi của Phật Giáo đến cho muôn loài. Việc ông cho xây tám vạn bốn ngàn bảo tháp để thờ xá lợi Phật trên khắp vương quốc để tương xứng với 84.000 pháp môn tu trong giáo lý Phật Đà, là một trong những nỗ lực gây sự chú ý của quần chúng vào Đạo Phật để họ quy ngưỡng về con đường lành, để tu tập, để đạt được giác ngộ và giải thoát.
Tấm gương bảo vệ và phát triển Chánh Pháp của A Dục Vương luôn tỏa chiếu sáng ngời đến khắp thế giới. Nhiều bậc quân vương Phật tử đã tiếp tục đi theo bước chân hào hùng của A Dục Vương, như Lương Võ Đế của Trung Hoa, Thánh Đức Thái Tử của Nhật Bản, Trần Nhân Tông của Việt Nam, Bhumibol của Thái Lan và hy vọng rằng sẽ có nhiều ông vua khác trong tương lai cũng sẽ kế thừa được công hạnh này.
Một niềm tự hào và hãnh diện khác là sau hơn hai ngàn năm trăm năm sau, những đóng góp của Vua A Dục vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của người dân Ấn Độ nói riêng và Phật giáo nói chung. Đáng chú ý nhất là quốc huy và quốc kỳ của Ấn Độ. Hiện nay quốc huy của đất nước này chính là bản sao của Trụ đá Vua A Dục tại Vườn Lộc Uyển, còn quốc kỳ thì lấy Bánh Xe Pháp Luân (Dharmachakra) của Phật Giáo làm biểu tượng chính. Nếu triều đại của A Dục Vương đã dễ dàng biến mất vào sự lãng quên của lịch sử, thì chính trụ đá và bánh xe chuyển pháp luân ở vườn Lộc Uyển của Vua A Dục vẫn là biểu tượng quen thuộc đối với một tỷ mốt người dân Ấn kể từ năm 1947. Nguyện cầu cho bánh xe Chánh Pháp sẽ lăn chuyển mãi về sau để mang ánh sáng giác ngộ từ bi và trí tuệ của Đức Phật đến cho mọi người mọi nhà.
Thứ Tư, 22 tháng 8, 2012
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ nhất - Drogon Tsangpa Gyare
“Thế nào được gọi là Pháp thân?”
“Không sinh không diệt, không có chỗ trụ, không phân biệt, không tách rời, thoát khỏi thế giới nhị nguyên.” Nói xong đức Thích Ca liền biến mất. Ngay lúc đó đức Tsangpa Gyare liền thấu hiểu ý chỉ trả lời của đức Thích Ca. Ngài cảm thán hát lên:
"Kính lễ Kim Cương thượng sư
Đi tìm xem có "Tôi" tồn tại
Kẻ du già áo vải Gyare
Khắp vương quốc cất bước du hành,
Mỗi khi nhìn thấy người mắc lỗi,
Chính lỗi mình lại chợt nhận ra
Ác hạnh ấy sao chẳng tận trừ?
Dù đầy rẫy niềm vui thế tục
Quê hương ta - năm độc ngục tù,
Nơi tật đố, chấp trì tăng trưởng
Quê hương ấy sao chẳng xả ly?"
Một hôm, bậc Thượng sư cho phép được quay về nghiên cứu học hỏi, bậc Thượng sư đã bảo rằng: “Ngài hãy trở về Leu Chhung (là quê của Ngài Tsangpa Gyare)”. Nghe xong Ngài suy ngẫm nếu bậc Thầy không hoan hỷ thì việc học hành của ta có ích gì? Tại sao ta lại làm cho bậc Thượng sư phải buồn. Ngay lập tức Ngài liền xin sám hối xin từ bỏ ý định đó. Bậc Thầy liền nói đó là người chân thật thực hành giáo pháp, bậc Thượng sư vô cùng hoan hỷ. Ngài tiếp tục học và nhận các khẩu truyền từ bậc Thượng sư và ở lại bên Thầy hơn 6 năm. Đến năm 28 tuổi, Ngài xin đi nhập thất. Bậc thượng sư dạy hãy ở lại đây chớ có đi. Sau này con hãy vì ta mà trông nom tự viện Naphu. Đức Lingchen Repa đã huyền ký: “Trong tương lai con sẽ kiến lập nên 2 tự viện nổi tiếng là Druk và Ralung." Sau đó, Ngài lại xin phép Thầy đi đến vùng Lhodrag Kharchhu. Bậc Thượng sư dạy rằng: “Ở Lhodrag Kharchhu có một kho tàng kinh điển ”6 pháp vị bình đẳng” của Naropa cất giữ ở đó chỉ có dòng Truyền thừa của chúng ta mới có, ngoài ra các phái khác đều không có. Giáo pháp này được truyền từ đức Naropa xuống Marpa, Ngài Marpa sau đó truyền cho con trai mình là Tiphusang Ngaga Dongpo, đến lượt mình lại truyền tiếp xuống Retrungpa. Ngài đã dặn tổ Retrungpa: “ Sáu pháp này chính là cốt tuỷ tinh hoa trong các pháp, Pháp này là tinh tuý nhất quý giá vô cùng ta nay truyền trao cho con sau đó con hãy cất giữ đừng trao cho ai đợi đến ba đời sau sẽ có một vị chân hoá thân của đại thiền trí Naropa. Ngài sẽ là người khai thác tạng kinh đó" (Huyền kí của Ngài Tiphi trong sách Cây tích trượng trang 3 có ghi rõ). Khi Ngài vừa đến Lhodrag Khachhue trong buổi đi khất thực Ngài nghe tin bậc Thượng sư đã nhập Niết Bàn, Ngài đau khổ vô cùng, bậc Thượng sư ra đi như mặt trời mất, thế gian chìm trong tăm tối khổ não. Ngài vội vàng trở lại Naphu để lo việc trà tỳ kim thân của bậc Thượng sư tôn quý, xây dựng bảo tháp để tôn thờ xá lợi và truyền nốt những quán đỉnh đang dở dang cho đại chúng. Sau khi sắp xếp mọi việc ổn định, Ngài lại quay trở lại Lhotrag Kharchhu, có hai người Jargom và Sherye đi cùng nhưng họ đã không chịu nổi những khó khăn nên bạch với Ngài: “Thưa Ngài chúng tôi không chịu nổi xin được trở về”. “Được thôi, các ngươi hãy trở về nơi an vui mà sống còn ta sẽ ở lại đây quyết tâm bế quan trong 3 năm.” Thế là họ đã từ giã và để lại Ngài sống một mình. Lúc đó cuộc sống của Ngài vô cùng khó khăn vất vả, y phục, ẩm thực thiếu thốn mà phải đương đầu với cái lạnh thấu xương tủy của xứ tuyết. Chẳng có bóng ai qua lại duy chỉ có một vị thí chủ tên là Jowo Kungapra cúng dường cho Ngài 3 túi bột nhỏ trong một tháng. Nhưng cho dù vất vả khó khăn đến đâu thì Ngài vẫn cương quyết không một niệm thoái lui. Sau đó Ngài mắc bệnh rất nặng, vô cùng mệt mỏi. Đúng lúc này thì nội chướng ngoại chướng đều tập hợp đến quấy phá. Thiên ma đã dẫn đến cả vạn thiên binh chúng hiện đủ hình dạng khác nhau trông rất kinh sợ, chúng hò hét quát mắng rung chuyển cả trời đất. Ma vương đã xuất hiện với vẻ mặt hung tợn đứng trước mặt Ngài quát mắng: “Hãy nhìn thẳng vào mặt ta đây. Ta là người có sức mạnh uy quyền làm chủ cả 3 cõi thế gian sẽ không có chỗ nào cho ngươi, ta sẽ thiêu đốt thế gian này thành tro bụi”. Ma vương đã nói rất nhiều …..rồi nó lại hô hào ma quân tìm đủ cách tấn công quấy phá một cách kịch liệt giữ dội. Nhưng đức Tsangpa Gyare vẫn an nhiên tự tại chẳng chút sợ hãi, Ngài liền cất tiếng bảo bọn chúng rằng: “Này ma vương, ta đã thấy rõ rồi cho dù mọi âm thanh sắc tướng kinh dị của người vừa làm cũng chẳng làm rung động nổi một lỗ chân lông của ta, mọi việc làm của ngươi cũng vô ích. Thôi hãy đi xa ra đằng kia đừng quấy nhiễu ta”. Dứt lời tất cả ma vương cùng quyến thuộc chúng đều rất ngạc nhiên kinh sợ dáo dác nhìn nhau rồi tan biến mất. Thế rồi một lúc sau, Ngài liền nghe từ xa vọng lại những âm thanh nhẹ nhàng du dương, những mùi thơm kì lạ và từ phía trước đang tiến về một đoàn thiếu nữ lộ trần người xinh đẹp tuyệt trần mang nhiều trang sức châu báu, miệng chúm chím cười khêu gợi dáng dấp e thẹn và cất tiếng thỏ thẻ: “Như trong một hồ sen xanh tốt, Ngài là một cánh sen tươi đẹp chẳng loài hoa nào có thể sánh kịp và nếu Ngài kết duyên cùng em thì thật xứng đôi vừa lứa” ….Ma nữ đã dùng biết bao lời để dụ dỗ khiêu động lòng Ngài, Ngài đã cất tiếng bảo chúng rằng: “Này yêu nữ, những sắc đẹp yêu kiều diễm lệ có khác gì bông hoa ban đầu tươi đẹp nhưng sau sẽ úa tàn, thế gian có cái gì gọi là đẹp. Nhìn sâu vào ta đã thấy rõ mọi khổ đau bên bức bình phong kia. Ta đã thấy rõ được bản chất thật của thế gian là vô thường, vô ngã, khổ và không,…. Các ngươi hãy trở về chỗ ở của mình đừng đem những lời giả dối mà nịnh bợ ta, chỉ uổng công thôi”. Ma nữ nghe xong biết không thể dụ dỗ nổi bậc giải thoát nên đã rút lui. Đức Tsangpa Gyare đã nghĩ về quá khứ về bậc đạo sư của mình…. Ngài đã lập thệ nguyện dù thân này có mất cũng quyết đạt giác ngộ. Ngài đã cất lên tiếng hát tán thán chư Phật và cầu nguyện đến bậc đạo sư. Rốt cuộc Ngài đã chứng ngộ các quả vị từ thấp đến cao và cho đến quả vị thù thắng nhất. Ngài đã cảm hoá tất cả ma quỷ và trở thành các vị hộ pháp đắc lực cho giáo pháp. Trong thời gian đó có một tu sĩ tên là Geshe Shuwu Nare đã hỏi “Ngài ở trong hang động bịt kín tối om chẳng thấy gì thế thì Ngài chứng ngộ được điều gì?” Ngài liền cất tiếng hát: “Namo Rinpoche! Thấy rõ bản tâm chân thật thì sinh tử niết bàn chỉ là một, tất cả vạn pháp tự tính đều bình đẳng, từ bỏ các việc ác tích tập các việc lành cũng không còn. Đó là những gì mà ta thấy.” Ngài đã ở Lhorag Kharchhu 3 năm 18 tháng mà không rời khỏi chỗ. Vào một đêm, trong lúc xả thiền, Ngài đã có linh kiến gặp lại đức Lingchen, bậc đạo sư đã khẩu truyền cho Ngài và nói: “Sau này con có thể làm lợi ích chúng sinh và vô số hữu tình”. Bậc đạo sư đã ban bố cho Ngài rất nhiều huấn từ. Lần khác đang ngủ, Ngài mơ thấy một vị mặc đồ trắng tay cầm gậy vải ngũ sắc và hỏi: “Này bậc hành giả, Ngài chính là hoá thân của Naropa chẳng hay không nhớ sao?”, nói xong liền chỉ tay về vách đá đằng kia và nói nơi đó đã cất giữ Sáu pháp bình đẳng của Ngài trước đây, nói xong vị đó liền biến mất. Ngài liền tỉnh giấc và nhập vào đại định quán sát liền thấy rõ tất cả tiền kiếp của mình cũng như những lời tiên tri trước đây của bậc đạo sư. Thế là đấng hộ trì chúng sinh đã đến núi đá và đã khám phá khai thác ra kho tàng kinh điển “Sáu pháp bình đẳng" do tổ Rechungpa thọ nhận từ tổ Tilopa và chôn giấu sau khi từ Ấn Độ trở về. Ngài đã ở Lhodrag Kharchhu thiền định rất nhiều năm và bây giờ Ngài quyết định trở về Naphu. Ở đây, Ngài đã hoằng dương Phật Pháp làm nhiều công hạnh lợi tha để lợi ích chúng sinh không thể kể xiết. Chính trong thời điểm này, Ngài đã thấy Yeshe Dakini Sengge Dongchen (Khandroma trí tuệ có mặt sư tử) hiện giữa hư không và dạy rằng: “Nay phái Drikung họ đang đi đến khu thánh địa Tsari, hỡi Tsangpa Gyare, như thế chưa phải thời điểm để con lên đường hay sao?" Lời dạy vừa dứt, Đấng hộ trì đã nhập định quan sát và nhớ lại những lời dạy của bậc đạo sư trước đây. Ngay lúc đó đức Lingchen đã xuất hiện và bảo rằng: “Con hãy đi từ đây về Đông nam có cung điện của Bản Tôn Chakrasamvara có Khandro Yinyingphu có sự giác ngộ của Lingchen… Đã đến thời điểm con phải đi, đừng ở yên một nơi nữa”. Bầu trời thế gian đang tăm tối khi mặt trời mọc sẽ chiếu sáng khắp muôn nơi. Và cuộc hành hương triều bái thánh địa Tsari đã bắt đầu như thế. Đoàn hành hương của Ngài Tsangpa Gyayre gồm tất cả 5 người, giữa đường họ gặp phái Drikung và họ đã hỏi nhau rất nhiều vấn đề và quyết định đi cùng nhau. Phái Drikung chuẩn bị hành lý thức ăn rất nhiều, mọi y phục rất sang trọng nên khi họ nhìn thấy đoàn người của đấng Hộ Trì hành lí chẳng có gì y phục thì đơn sơ, mộc mạc họ cũng sinh tâm coi thường. Nhưng đức Tsangpa Gyare vẫn điềm nhiên. Năm chị em Ngài Tsheringma đã hoá thân làm 5 con chim dẫn đường. Đường đi gian khổ vất vả vô cùng, đoàn Drikung đã rút lui quay trở về, còn đoàn Ngài vẫn tiếp tục đi. Đang đi đến nơi nọ bỗng nhiên có một con rùa to lớn bò ngang chặn đường trông rất gớm giếc. Trước dị cảnh đó, trong đoàn có người thiền định về tánh không, có người thiền định về từ tâm. Người khác thì làm Torma khiển trừ chướng ngại, chỉ riêng Đức Tsangpa Gyare với cặp mắt trí tuệ của mình Ngài biết đó là quỷ hiện hình nên đã lấy tay đập mạnh vào đầu nó. Mọi người can Ngài và xin đừng làm như vậy sẽ có hại cho đời Ngài và tuổi thọ của Ngài, đức Tsangpa Gyere đã trả lời: “Dù ta đánh hay không đánh nó thì tuổi thọ của ta cũng không vượt quá 51”, nói xong Ngài đã nhảy lên giẫm nát con rùa thành cát bụi và tại chỗ này Ngài đã in một bước chân trên đó. Thế là đoàn tiếp tục đi, đã có vô số các Dakini cùng vô số quyến thuộc cung đón đến một dòng nước nhỏ trong mát. Ngài đã tắm rửa và bỏ y cùng cỗ tràng trên bờ, Khandro Senggye Dong đã hoá thành trẻ nhỏ lấy cỗ tràng đem đi. Trên suốt dọc đường đi các Daka và Dakini chư thiên đã hiện ra cung đón cúng dường Ngài rất nhiều, khi đến Tsari cũng vậy chư thiên trỗi nhạc rải hoa cung nghinh bậc giác ngộ và tùy tùng. Nhưng khi Pháp Vương hỏi 2 vị thị giả có thấy gì không họ bảo: “Chúng con chỉ thấy những đàn ong xinh đẹp bay lượn rất nhiều chẳng thấy gì hơn cả." Ở tại đây Ngài đã thấy rất nhiều cảnh giới Mandala của nhiều Bổn Tôn khác nhau đặc biệt là bảy Chư Phật hiền kiếp xuất hiện các Ngài đồng thanh bảo rằng: “Này con yêu! Đã đến lúc con di chuyển bánh xe pháp lợi ích cho vô lượng chúng sinh”. Ngài đã ở lại đây thiền định trong nhiều tháng. Tại nơi thánh địa siêu việt phi thường này, Đức Tsangpa Gyare đã linh kiến thấy bản tôn Chakrasamvara huyền ký rằng, Ngài sẽ thành tựu ngôi chính đẳng chính giác và là Đức Phật Moëpa trong tương lai. Theo những khai thị bí mật của chư Dakini, Ngài cũng đã khám phá rất nhiều kho tàng giáo pháp tại miền Nam Tây Tạng. Lần thứ 2 Ngài muốn đến Tsari, lại một lần nữa các đệ tử đã cầu thỉnh Ngài đừng đi, nhưng Ngài vẫn quyết định lên đường. Trước khi đi, Ngài dặn các đệ tử: “Sinh tử là việc lớn phải nỗ lực thực hành giáo pháp để một đời có thể giác ngộ thành Phật…”. Đấng hộ trì đã quyết định thực hiện chuyến hành hương và lần này cũng chỉ có một mình Ngài, trên đường đi Ngài có nhận được một cái mũ của đức Droje Phacmo do vị trưởng dòng phái Drikung dâng cúng. Năm 1194, khi đến chùa của Zhang Rinpoche, Ngài đã thọ giới Sadi và Tỳ kheo với Đấng Hộ trì chúng sinh Zang Youtrakpa và được ban pháp danh là Yeshe Dorje. Tiếp tục sự nghiêp hoằng dương Phật Pháp và đi tìm linh địa nhằm kiến lập tự viện. Dưới sự hướng đạo của bản sư Lingchen Repa và bản tôn của Ngài, Đức Tsangpa Gyare đã kiến lập tự viện Longdol (gần Lhasha), tự viện Shedrub Chokhor Ling tại Ralung gần tỉnh Tsang vào năm 1193. Bản sư Lingchen Repa cũng chỉ dạy Ngài có bổn phận hoằng dương trải rộng giáo pháp. Sau đó vào năm 1206, khi Ngài đang trên đường tới vùng U để kiến lập một trung tâm tự viện lớn, Ngài và chúng đệ tử vừa tới Namgyi–phu thì chứng kiến điềm đại cát tường chín rồng thiêng (tương truyền là các hóa thân của chín Đại Thành Tựu Giả Ấn Độ) cuộn mình từ mặt đất bay vút lên không trung vang vọng những tiếng rồng sấm trong khi mưa hoa từ trên trời rơi xuống. Từ đó, dòng truyền thừa được mệnh danh là Drukpa. Theo tiếng Tạng Druk có nghĩa là “Rồng”. Tự viện Druk Sewa Jangchub Ling hay “Thánh địa của Truyền Thừa Drukpa Tối Thượng” đã được kiến lập tại đây. Trong một khoảng thời gian dài, đây là tự viện chính của Truyền thừa Drukpa, được mệnh danh là tự viện amdruk. Đã có khoảng một ngàn am thất được xây dựng tại đây trong vòng một năm. Các đệ tử đem sự gia trì của Ngài hoằng truyền giáo pháp trải khắp muôn nơi. Ngài Gyalwang Gotsangpa và các đệ tử (1189-1258) truyền pháp ở Miền Tây – Tây Tạng thiết lập nên dòng “Drukpa Thượng”. Ở Miền Đông Tây Tạng, Ngài Gyalwang Lorepa và các đệ tử (1187-1250) thiết lập nên dòng “Drukpa Hạ”. Đấng hộ trì chúng sinh có vô lượng đệ tử, lúc gần nhập niết bàn, Ngài chỉ ở một chỗ không đi bất kỳ một nơi nào. Ngài thường căn dặn các đệ tử có những điều gì nghi ngờ cứ hỏi và nỗ lực thực hành pháp thiền định về Đại Thủ Ấn (Mahamura) và dặn dò rằng nếu như các đệ tử có niềm tin tuyệt đối với bậc Thầy, thì dù bậc Thầy có nhập diệt nhưng nếu đệ tử trí thành cầu nguyện thì bậc Thầy vẫn luôn hiện diện như trước đây. Ngài nhắc tới việc thường cầu nguyện đến bậc Đạo Sư của mình, và bậc Đạo sư vẫn luôn xuất hiện ban gia trì cho Ngài. Vào một buổi sớm mùa xuân năm 1211, khi Đức Tsangpa Gyare đang chuẩn bị cử hành nghi lễ quán đỉnh hàng năm, bỗng xuất hiện rất nhiều điềm bất tường như động đất, hào quang cầu vồng và rất nhiều sao băng trên bầu trời. Lo sợ rằng đây là điềm báo một chướng ngại lớn đối với thọ mạng của Ngài, rất nhiều người đã thỉnh cầu Ngài không tiếp tục ban quán đỉnh. Mặc dù vậy, Ngài vẫn tiếp tục cử hành nghi lễ. Sau khi kết thúc ngày thứ hai của lễ quán đỉnh, Ngài đã dạy: “Thậm chí nếu ba đời chư Phật thị hiện nơi đây thì cũng sẽ không làm gì khác với những gì ta đã làm.” Khi nói điều này, Ngài đã rất hoan hỷ nhưng sang ngày tiếp theo, Ngài đã trở bệnh. Các đệ tử cử hành rất nhiều nghi lễ cầu nguyện với mong muốn sức khỏe của Ngài sẽ sớm bình phục, song Ngài dạy rằng mình sẽ thị hiện viên tịch vào mùa thu năm đó. Sau đó Ngài ban lời di huấn: “Truyền thừa Drukpa vẫn sẽ phát triển và tăng trưởng rộng khắp. Những ai đã thụ nhận giáo pháp Mahamudra nên thấy tự vừa lòng trong tu tập và có thể luận giải cho người khác. Còn những người khác thì hãy tu tập hồi hướng công đức, cầu nguyện cho đạo sư trong ba năm. Những đệ tử ưu tú nhất của ta hãy bế quan nhập thất thiền định, rồi sau đó sẽ lợi ích cho vô số người khác. Những đệ tử cao cấp thì nên nhận chỉ dạy, hướng đạo cho một hoặc hai đệ tử trong những am thất cô tịch, trong nghĩa địa, nơi thâm sơn cùng cốc. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được nhảy múa thì hãy để cho họ nhảy múa. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được khóc thì hãy để cho họ khóc. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được cầu nguyện hãy để cho họ cầu nguyện. Bởi vì, từ bi và trí tuệ là những chất liệu cho sự thực hành của ta trong đời này cho nên sẽ cũng là như vậy trong những đời kế tiếp. Các con hãy nhất tâm tinh tiến tu tập. Chủ yếu là hãy nỗ lực thực hành Guru Yoga. Nếu còn những điều gì chưa thông tỏ thì các con sẽ được giải đáp trong những giấc mộng. Nếu các con có lòng chí thành và cầu nguyện tới ta thì sự ban phước sẽ tăng trưởng rất nhiều”. Hướng về phía người cháu của mình là Onre Darma Sengye, Ngài nói: “Sau khi ta viên tịch, hãy trụ trì hai tự viện Namdruk và Ralung. Con phải tinh tiến tu tập trong ba năm để hồi hướng cầu nguyện cho đạo sư của con. Sau đó, hãy xây một tòa tháp và tòa tháp đó sẽ trở thành một bảo tháp có vô số cửa”. Ngài cũng huyền ký với Darma Sengye là: Sau khi ta nhập diệt, chín Nhiếp chính vương nắm giữ dòng truyền thừa có pháp danh “Sengey” sẽ thay nhau kế tiếp ta hoằng dương chính Pháp lợi ích cho vô lượng quần sinh. Tiếp đến là 3 vị hóa thân – chủ của Ba Bộ (Mạn thù sư lợi, Quan thế âm và Kim cương thủ). Sau đó ta sẽ hóa thân trở lại thế giới này". Sau lời di giáo, Ngài tới tự viện Yangon và an nhiên thị tịch vào ngày 25 tháng mùa thu thứ 3 (tháng 10 - tháng 11) năm Tân Mùi (1211). Vào lễ trà tỳ, bảo cái, cầu vồng xuất hiện phía trên tự viện và mưa hoa rơi xuống. Khi đấng hộ trì chúng sinh nhập diệt như mặt trời lặn, củi hết lửa, chúng sinh chìm trong tăm tối, thế gian trống rỗng …. Tiếng kêu trấn động 33 tầng trời, tất cả thiên chúng đều buồn khổ, chủ của 33 tầng trời dắt tuỳ tùng ở giữa hư không cúng dường thiên y, các thứ hoa báu âm nhạc, đồ hương vô lượng vô biên chẳng thể kể xiết.. . Các đệ tử cùng hội chúng lập đàn cầu nguyện suốt 18 ngày… Sau đó, họ làm một ngôi nhà trang trí cờ hoa lọng phướn, trang nghiêm vô cùng để làm lễ trà tỳ kim thân Ngài. Các chư thiên mang lửa xuống để làm lễ trà tỳ nhưng không cháy nổi, cuối cùng từ kim thân của Ngài phóng ra ngọn lửa Tam Muội to lớn tỏa sáng khắp 10 phương thấu đến cả địa ngục. Sau đó, ánh sáng lại thu vào nhập vào thân Ngài rồi từ rốn Ngài phóng ra một ngọn lửa tự lan trà tỳ thân Ngài. Sau lễ trà tỳ đã thu lượm vô số xá lợi.
Tim, lưỡi và mắt của Ngài vẫn còn nguyên vẹn. Đầu cốt của Ngài xuất hiện thánh tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Kim Cương Thủ; 21 đốt sống lưng của Ngài chuyển thành 21 thánh tượng nhỏ của Đức Quan Thế Âm. Hầu hết trong số đó vẫn được bảo tồn cất giữ trong bảo tháp tại tự viện Ralung. Trong khi không hiện thân ở cõi này, Ngài an trụ tại cõi Abhirati Đại An Lạc, cảnh giới Tịnh Độ của Phật A Súc Bệ. Ngài thành tựu đại tịnh hóa trong đức tướng Đại Bồ Tát Tịnh Quang tại cõi tịnh này. Trong khoảng thời gian trước khi Ngài hóa thân trở lại thế giới này, chín vị hóa thân mang pháp danh “Sengey” nghĩa là Sư tử và Chủ của Ba Bộ đản sinh trong cùng một dòng họ thuộc bộ tộc Gya. Các ngài kế tiếp nhau nắm giữ Truyền thừa ở tự viện Ralung. Tuy nhiên tất cả đều không phải là hóa thân của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa. Với những thành tựu tâm linh đã chứng đạt, Đức Tsangpa Gyare trở nên nổi tiếng là Druk Thamchay Khyenpa hay “Bậc Thiên Long Chí Tôn Toàn Giác” và được tôn xưng là Je Drukpa (tiếng Tạng nghĩa là Bậc Thầy Thiên Long Chí Tôn) hay The Drukchen (Bậc Thiên Long Chí Tôn). Tuy nhiên, pháp danh tôn xứng nhất của bậc thượng sư giác ngộ này cũng như những hóa thân đời sau của Ngài là Gyalwang Drukpa, trong đó Gyalwang có nghĩa là “Vị Vua của các Đấng Chiến Thắng”. Ngài là một đạo sư trứ danh và mỗi khi Ngài truyền pháp có tới hơn 50.000 người tham dự. Theo điển tích ghi lại, Ngài có tới 88.000 đệ tử, trong số đó 28.000 là hành giả Yogi giác ngộ. Dòng truyền thừa của Ngài lừng danh bởi sự thanh tịnh, giản dị, tính chân tu khổ hạnh của các đệ tử cùng những pháp truyền thừa tu trì thâm diệu. Ngài đã trước tác cuốn luận giảng nổi tiếng Tantra of Chakrasamvara và hoằng truyền giáo pháp rộng khắp cho đến tận ngày nay vì lợi ích của hết thảy hữu tình chúng sinh.
Nguồn: http://www.drukpavietnam.org
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)