Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

Tôn giả XÁ LỢI PHẤT (Sariputra - Sariputa)



Thành Vương Xá (Rajagrha - Rjagaha) là kinh đô của vương quốc Ma Kiệt Đà (Magadha), ở miền Nam Ấn Độ. Cách thành này chừng vài dặm, có một thôn trang tên là Ca La Tí Noa Ca (Nalaka), rừng trúc xinh tươi, non xanh nước biếc, cảnh trí thật là u nhã. Đó là quê hương của tôn giả Xá Lợi Phất, vị đệ tử có trí tuệ lớn của đức Phật.
Xá Lợi Phất được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng Bà la môn. Thân phụ của tôn giả đã từng là một luận sư nổi tiếng của đạo Bà la môn. Thân mẫu tôn giả, trong thời gian mang thai tôn giả thì tâm trí trở nên linh mẫn khác thường, đến nỗi ông em ruột của bà là Câu Hi La (Kausthila - Kotthita), vốn dĩ cũng là một tay nghị luận cự phách đương thời mà cũng phải chịu thua bà. Bởi vậy, ông rất lấy làm hổ thẹn, phải bỏ nhà mà đi. Ông biết rằng, chị mình đã chịu ảnh hưởng của cái bào thai, và đứa bé đang nằm trong bụng mẹ kia, sau này nhất định sẽ là một bậc có trí tuệ hơn người; nếu mình không cố công học hỏi thêm thì thế nào cũng phải thua kém đứa cháu ấy, rồi người ta cười cho thì sao! Cho nên sau khi rời khỏi nhà, ông đã đi khắp nơi tìm các bậc minh sư để cầu học. Ông chuyên cần cho đến nỗi móng tay mọc dài mà không có thì giờ để cắt, khiến cho ai ai cũng gọi ông là Trường Trảo Phạm Chí (Dirghanakha - Dighanakha - ông thầy tu móng dài). - Về sau, nhân thấy Xá Lợi Phất qui y làm đệ tử  Phật,ông cũng xuất gia theo Phật làm sa môn.
Khi lên tám tuổi, Xá Lợi Phất đã làu thông kinh sử. Lúc bấy giờ, ở nước Ma Kiệt Đà có hai anh em Cát Lợi và A Già La, đều là hàng trưởng giả. Một hôm, họ thết tiệc lớn khoản đãi quốc vương, thái tử, các vị đại thần, cùng các vị luận sư. Trong phòng bày tiệc, tất cả chỗ ngồi của khách đều được qui định rõ ràng, tùy theo thân danh và địa vị từng người; thế mà cậu bé tám tuổi Xá Lợi Phất kia, không biết sợ sệt ai hết, đã dám ngang nhiên leo lên chỗ ngồi cao quí dành có các vị luận sư để ngồi. Lúc đầu, các vị đại thần và luận sư thấy thế thì cứ cho Xá Lợi Phất vì còn là con nít không biết gì, cho nên không thèm nói năng gì tới. lại còn cho đám đệ tử trẻ tuổi của họ đến chơi với cậu; nhưng một lúc sau, nghe cách nói năng của Xá Lợi Phất rất là khác thường, ngôn từ rõ ràng, khúc chiết, nghĩa lí tinh tường, rành mạch, thì các quan đại thần, các vị đại luận sư đều lấy làm kinh ngạc, khen ngợi và bái phục, riêng quốc vương thì vô cùng hoan hỉ, liền truyền lịnh lấy ngay một thôn trang thưởng cho Xá Lợi Phất. Cậu thần đồng tám tuổi ấy thật đã làm rạng rỡ cho gia đình, và chính ngay thân phụ của cậu, vốn là một danh gia đương thời, cũng phải công nhận rằng sự thông minh tài trí của ông không thể sánh kịp với đứa con cưng quí của mình.

Xá Lợi Phất lớn lên, trở thành một thanh niên cao lớn, nét mặt thanh tú, đôi mắt có thần, tay dài quá gối, được di truyền của thân phụ, cho nên cũng có cái phong độ của một nhà học giả trứ danh. Trong giới học thuật bấy giờ, không ai là không biết đến đại danh của chàng thanh niên “hậu sinh khả úy” đó.
Năm hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất xin phép song thân đi du phương học đạo, tìm cầu chân lí. Đầu tiên, chàng đến xin học với một thầy Bà la môn tên là San Xà Da (Sanjavairattiputra - Sanjayabelatthiputta). Một thời gian sau, vì thấy San Xà Da không đủ khả năng làm thỏa mãn ước vọng của chàng, Xá Lợi Phất lại muốn từ giã thầy để đi nơi khác.
Lúc bấy giờ, trong số bạn học, có một thanh niên tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana - Moggallana), là người bạn tri kỉ duy nhất của chàng. Chàng bèn nói ý tưởng của mình cho Mục Kiền Liên biết, và Mục Kiền Liên cũng có ý tưởng giống như vậy. Hai người liền quyết định rời học viện của San Xà Da và tự mình chiêu tập đồ chúng để lập nên một học viện mới. Cả hai người đều tự cho rằng, trên thế gian không còn ai thông minh tài trí hơn họ, cho nên không còn ai có đủ tư cách và khả năng xứng đáng để làm thầy họ nữa.
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, không những tuổi tác xấp xỉ bằng nhau, mà tư tưởng và trình độ học vấn cũng không khác nhau mấy. Cả hai người cùng có chí nguyện quyết tìm cầu chân lí. Họ thương kính nhau, ở cùng nhau, và cư xử với nhau thật vô cùng hòa hợp. Từ đây, họ chỉ cùng học hỏi với nhau và dạy dỗ đồ chúng ở trong học viện, ngoài ra, trong toàn cõi Ấn Độ, họ không còn thấy có bất cứ nhà học giả nào đáng kể dưới mắt họ. Cho đến một hôm Xá Lợi Phất bỗng nhìn thấy thầy A Thị Thuyết (hay A Thuyết Thị, A Xả Bà Thệ, Át Bệ, Asvajit - Assaji, là một trong năm vị tì kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử Phật, đã từng nhiều năm tu khổ hạnh, đến khi được nghe Phật dạy về giáo lí “Bốn Sự Thật” thì chứng quả thánh) trên một đường phố trong kinh thành Vương Xá ...
Dáng vẻ của thầy A Thị Thuyết trông trang nghiêm làm sao! Mỗi cử chỉ đi, đứng của vị tì kheo ấy đều tỏ rõ oai ghi tế hạnh. Thoạt nhìn thấy, Xá Lợi Phất bỗng cảm thấy tâm hồn rúng động. Thật kinh ngạc, thật kì lạ, không thể tả được! Không dằn được thắc mắc Xá Lợi Phất liền bước đến trước mặt A Thị Thuyết, chào hỏi một cách cung kính:
- Xin lỗi ngài cho tôi hỏi thăm, ngài tên là gì và đang cư ngụ tại đâu?
Thầy A Thị Thuyết trả lời:
- Xin cám ơn ngài đã hỏi thăm. Tôi tên là A Thị Thuyết đang cư ngụ tại tu viện Trúc Lâm (Venevana - Veluvana) ở phía ngoài kinh thành cách đây không xa lắm. (Có thuyết nói rằng, lúc Xá Lợi Phất gặp đại đức A Thị Thuyết thì tu viện Trúc Lâm chưa được xây cất; đức Phật và chúng tăng đang cư trú trong một khu rừng ở ngoại ô phía Nam thành Vương Xá - Chú thích của người dịch).
- Bậc tôn sư của ngài là ai? Và thường dạy ngài những đạo lí gì?
- Thầy tôi là người thuộc dòng họ Thích Ca, người ta thường gọi Người là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài thường dạy cho chúng tôi về chân lí của vũ trụ và nhân sinh, mà kẻ trí óc cạn cợt như tôi thì không thể nào hoàn toàn lãnh hội hết được. Giáo lí Thầy tôi thường giảng dạy mà tôi ghi nhớ nhiều nhất là như vầy:         
            “Các pháp do nhân duyên mà sinh,
            Và cũng lại do nhân duyên mà diệt”.
Và Người còn dạy:
“Tất cả các hành nghiệp đều là vô thường,
Đều là pháp sinh diệt.
Và một khi chấm dứt được sự sinh diệt,
Thì có được sự an lạc trong cảnh giới niết bàn tịch tịnh”.
Thật tôi không biết diễn tả thế nào để nói lên được lòng cảm kích của chúng tôi đối với những lời giáo huấn của Thầy chúng tôi!
Xá Lợi Phất cảm thấy như trời long đất lở khi vừa nghe được danh xưng “đức Phật” cùng giáo pháp của Ngài do từ miệng thầy A Thị Thuyết nói ra! Như ánh sáng chói lòa của mặt trời chiếu ngay trước mắt, bao nhiêu đám mây nghi ngờ về các vấn đề vũ trụ nhân sinh tích tụ từ trước đến nay bỗng dưng đều được quét sạch. Hai người đi với nhau thêm một quãng đường để đàm đạo. Đi bên cạnh vị tì kheo vừa mới gặp lần đầu mà Xá Lợi Phất cảm thấy như là bạn tâm giao đã lâu đời. Sau đó, Xá Lợi Phất xin cáo từ, và hứa với A Thị Thuyết thế nào cũng sớm đến tu viện để xin yết kiến đức Phật.
Xá Lợi Phất trở về học viện. Mục Kiền Liên xem thấy thần sắc Xá Lợi Phất sao mà khác thường, nét vui mừng hớn hở lộ ra trên mặt bạn hôm nay thật chưa từng thấy bao giờ! Bèn hỏi dò:
-Xá Lợi Phất! Sao? Có việc gì hứng thú lắm mà hôm nay trông bạn vui vẻ quá vậy?
- Mục Kiền Liên! Tôi mừng quá! Trong đời, đây là lần đầu tiên tôi thấy cao hứng như vậy! Này, tôi nói cho bạn biết nhé, tôi đã tìm thấy bậc tôn sư của chúng mình rồi! ...
Mục Kiền Liên trố mắt:
- Này, đứng nói như vậy, trên đời này lại còn ai có thể làm thầy chúng ta nữa chứ!
- Có chớ, có! Đó là đức Phật! Tôi xin nhắc lại, đó là đức Phật!
Rồi Xá Lợi Phất đem tất cả những gì đã nghe được từ thầy A Thị Thuyết về đức Phật và giáo pháp của Ngài, nói lại cho Mục Kiền Liên nghe. Hai người bạn, một người thuật và một người nghe, trong giây phhút quí báu ấy, đều vô cùng vui sướng, cảm động đến nỗi nước mắt chảy ràn rụa.
Pháp “nhân duyên”, người thường nghe đến thì không hiểu là gì, nhưng khi lọt vào tai của một người có trí tuệ và đang tìm cầu chân lí như Xá Lợi Phất thì khác hẳn. Ông cảm thấy như công phu tụ học của mình trong bao nhiêu năm qua đều trở thành rỗng tuếch! Điều đó không sai, bởi vì, chỉ có người nào thấy rõ được “nhân duyên” thì mới thấy rõ được Phật pháp.
Liền ngày hôm sau, Xá Lợi Phất đã cùng Mục Kiền Liên, dẫn theo hai trăm đồ chúng của họ, cùng đến tu viện Trúc Lâm xin xuất gia theo Phật. Đức Phật rất hoan hỉ, vì biết rằng, từ ngày thành đạo, đến nay mới có được hai người đệ tử đích thực có khả năng, có thể tiếp thọ chân lí do mình truyền đạt; trong khi đó thì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng biết chắc chắn rằng, cho đến hôm nay mình mới đích thực có được bậc Thầy chân chính!

Sau khi Xá Lợi Phất xuất gia theo Phật thì uy tín của tăng đoàn mạnh mẽ thêm lên. Tôn giả rất được Phật tin cẩn. Tôn giả đã là người đầu tiên được Ngài giao cho sứ mạng lên miền Bắc để giáo hoá, nhân tiện quản đốc công trình xây cất tu viện Kì Viên (Jetavana).
Nhắc lại, trong hai năm đầu sau ngày đức Phật thành đạo, công việc hoằng hóa của đức Phật chỉ mới phát triển ở khu vực phía Nam sông Hằng trong phạm vi các vương quốc Ca Thi (Kasi) và Ma Kiệt Đà. Lúc bấy giờ, ở kinh thành Xá Vệ (Sravasti - Savatthi) của vương quốc Kiều Tát La (Kosala), thuộc miền Bắc Ấn Độ, có một vị trưởng giả tên là Tu Đạt (Sudatta). Nhân duyên cơ ngộ, một hôm nhân xuống Vương Xá thăm người thân mà được diện kiến đức Phật. Vì lòng ngưỡng mộ, ông đã xin qui y Tam Bảo và thỉnh nguyện Phật cho phép ông được xây cất một ngôi tu viện ở kinh thành Xá Vệ - quê hương ông - để cúng dường Phật và tăng đoàn làm cơ sở tu học và hoằng pháp ở phương Bắc.
Sau khi dùng “vàng ròng trải đất”, mua được khu vườn cây của thái tử Kì Đà (Jeta) tại thành Xá Vệ, trưởng giả Tu Đạt liền trở lại Vương Xá xin Phật cho một vị tì kheo lên đó để trông coi công việc xây cất tu viện. Phật pháp đối với dân chúng Xá Vệ thật là mới mẻ. Nơi đó lại có đông đảo ngoại đạo hoạt động; cho nên người được cử lên đó không những phải đủ sức quán xuyến công việc xây cất tu viện, mà còn phải có đủ khả năng hàng phục ngoại đạo. Vì thấy rõ điều đó, đức Phật đã giao nhiệm vụ ấy cho Xá Lợi Phất, và tôn giả đã cùng với Tu Đạt lên đường đi về phương Bắc ...
Đúng như đức Phật đã lượng định trước, công việc xây cất được khởi công không lâu thì ma nạn liền đến. Vì lòng đố kị, vì lo sợ Phật giáo bành trướng, rất đông giáo sĩ ngoại đạo đã cùng đến yêu cầu trưởng giả Tu Đạt hủy bỏ ý định xây tu viện để cúng dường Phật; không những thế, họ còn bảo Tu Đạt không được tin theo đức Phật nữa. Nhưng trưởng giả vốn đã đặt niềm tin sâu sắc nơi đức Phật rồi, thì dù cho ngoại đạo muốn nói năng thế nào đi nữa, ông cũng không đổi ý. Quí vị giáo sĩ ngoại đạo bèn thay đổi kế hoạch. Họ thách tôn giả Xá Lợi Phất công khai tranh luận với họ; vì họ tin rằng, với cách này, chắc chắn họ sẽ đánh bại được Xá Lợi Phất để cho Tu Đạt sáng mắt ra mà tỉnh ngộ. Khi biết được tin này, trưởng giả lo sợ vô cùng. Ông  nghĩ rằng rằng, một mình tôn giả Xá Lợi Phất thì làm sao có thể thắng được số giáo sĩ ngoại đạo đông đảo như vậy! Ông bèn đến yết kiến tôn giả để tỏ lộ tâm trạng lo lắng của mình; nhưng khi nghe điều ấy, tôn giả đã không chút gì tư lự, lại còn tỏ ra hết sức vui mừng, vì đối với tôn giả, đây mới chính là một cơ hội thật tốt để hoằng dương giáo pháp.
Ngày giờ và địa điểm mở cuộc tranh luận đã được ước định. Bên phía ngoại đạo cử ra vài mươi vị luận sư để đối chọi với chỉ một mình tôn giả Xá Lợi Phất.
Nên biết rằng, trong cuộc tranh luận này, về số lượng, tuy đại diện đức Phật chỉ có một mình tôn giả Xá Lợi Phất, nhưng trên thực lực thì một Xá Lợi Phất ấy cũng đủ để đánh bại hàng ngàn, hàng vạn các vị luận sư ngoại đạo. Tôn giả là một vị đệ tử ít có ai sánh kịp trong số các đệ tử của Phật. Lại nữa, chúng ta hẳn còn nhớ, tôn giả vốn xuất thân từ một gia đình Bà la môn, mà tổ phụ và thân phụ đều là những bậc học giả, luận sư lỗi lạc trong giới Bà la môn. Ngay từ lúc nhỏ, tôn giả đã hưởng thụ được trọn vẹn cái di sản tinh thần đó của ông, cha, đã từng tinh thông mọi điển tịch ngoại đạo; lớn lên lại gặp cơ duyên xuất gia theo Phật và đã chứng quả thánh, thì còn chọn ai hơn được tôn giả để đối phó với ngoại đạo trong trường hợp này! Cho nên, không cần nói chúng ta cũng biết được rằng, tôn giả Xá Lợi Phất đã thắng quí vị luận sư ngoại đạo trong cuộc thử thách này. Có điều đáng nói, sau cuộc tranh luận công khai ấy, quí vị giáo sĩ ngoại đạo đã thấy rõ được chân lí, phá bỏ kiến chấp, đồng lòng xin tôn giả Xá Lợi Phất giới thiệu họ được gặp Phật và qui y theo Phật tu học. Cũng nhân cơ hội này mà rất đông đảo quần chúng được biết đến Phật pháp và đều xin qui y Tam Bảo. Riêng trưởng giả Tu Đạt thì vui mừng hớn hở, càng khâm phục tôn giả Xá Lợi Phất, ông lại càng cảm kích oai đức của Phật. Lúc đó, tuy đức Phật vẫn còn đang hành hóa ở phương Nam, mà ánh sánh chân                              lí đã rọi chiếu đến phương Bắc.
Công trình xây cất tu viện Kì Viên được tiến hành rất nhanh chóng. Theo đồ án do tôn giả Xá Lợi Phất thiết kế, tu viện gồm có mười sáu gian nhà rộng lớn dùng cho những sinh hoạt tập thể như giảng đường, hội trường; sáu mươi gian nhà nhỏ dùng làm phòng ngủ, phòng tĩnh dưỡng, phòng rửa mặt, kho chứa vật dụng v.v...; ngoài ra còn có các sân vận động, sân tắm, ao nước, vv...
Một hôm, khi tu viện xây cất sắp xong, tôn giả chỉ lên hư không nói với Tu Đạt:
- Trưởng giả Tu Đạt! Hãy nhìn kìa! Trên không trung hiện ra những gì, ông thấy không?
Tu Đạt lấy làm lạ đáp:
- Thưa tôn giả, con có thấy gì đâu!
- À phải rồi, nếu dùng nhục nhãn thì không thể thấy được những cảnh này đâu. Bây giờ ông hãy nương vào thiên nhãn của tôi mà nhìn lại một lần nữa nhé!
- Thưa tôn giả, con đã thấy rồi. Con thấy có rất nhiều điện đẹp đẽ, trang nghiêm. Tu Đạt rất làm sung sướng nói với Xá Lợi Phất như vậy.
- Đó là cung điện ở cõi trời Lục Dục, để dành cho ông đấy. Ở đây ông xây tu viện để cúng dường đức Phật dùng làm cơ sở hoằng pháp; dù tu viện chưa hoàn tất, nhưng cung điện dành cho ông ở cõi trời Lục Dục thì đã hoàn thành rồi.
- Thưa tôn giả, cung điện của cõi trời Lục Dục nhiều như thế thì về sau con nên ở cung trời nào tốt hơn?
- Ở cung trời Đao Lợi thì mạng sống rất dài, lại có ý thức và siêng năng trong việc tu hành Phật đạo, cho nên rất ít khi bị đọa lạc.
- Vậy thì trong đời tương lai con nguyện được sinh về cung trời Đao Lợi.
Trong lúc Tu Đạt nói lời ấy thì bao nhiêu cung điện khác dần dần biến mất, chỉ còn lại cung trời Đao Lợi là sáng rỡ huy hoàng. Tu Đạt thấy thế thì vô cùng vui mừng. Đó là việc có một không hai trong đời ông từ trước đến giờ.

Nói đến việc trưởng giả Tu Đạt, nhân xây cất tu viện cúng dường Phật mà có thể nương vào thiên nhãn của tôn giả Xá Lợi Phất để nhìn thấy được đến các cung trời, tưởng cũng nên nhắc lại trường hợp đặc biệt của cặp mắt Xá Lợi Phất trong một câu chuyện tiền thân của tôn giả cách sáu mươi tiểu kiếp về trước, khi tôn giả đang tu hạnh bồ tát.
Thuở đó, trong khi phát tâm tu hạnh bồ tát, Xá Lợi Phất đã rất chú trọng đến hạnh bố thí. Để thực hiện hạnh bố thí, Xá Lợi Phất không những phát nguyện giúp cho mọi người tài vật, nhà cửa, ruộng vườn, mà thậm chí còn hi sinh đến cả thân thể và tính mạng nữa. Tâm nguyện chân thành của Xá Lợi Phất lúc đó đã làm cảm động đến cả trời đất. Bấy giờ có một vị trời muốn thử tâm đạo của Xá Lợi Phất bèn hóa hiện làm một gã thanh niên tuổi chừng hai mươi, đứng bên đường chờ Xá Lợi Phất đi ngang qua. Khi Xá Lợi Phất vừa tới trước mặt thì gã thanh niên liền khóc lóc kêu gào thảm thiết. Xá Lợi Phất thấy thế thì động mối thương tâm, bèn an ủi hỏi han:
- Này cậu! Có chuyện gì mà cậu đứng đây khóc lóc thảm thiết quá vậy?
- Xin ông đừng hỏi làm gì! Tôi dù có nói chuyện này với ông cũng chỉ vô ích mà thôi.
- Cậu ạ! Tôi là kẻ tu hành, có tâm nguyện giúp đỡ những ai bị đau khổ. Chỉ cần cậu nói rõ cái hoàn cảnh bất hạnh của cậu, nếu khả năng tôi có thể làm được gì để giúp đỡ thì tôi tức khắc làm cậu vừa ý ngay.
- Tôi biết chắc chắn là ông thể giúp gì được cho tôi đâu! Tài sản ở thế gian tôi không hề thiếu thốn, chỉ vì mẹ tôi bịnh quá nặng, không thể tìm thuốc chữa mà tôi đau đớn đến phải khóc lóc thảm thiết như vầy. Theo lời thầy thuốc bảo thì tôi phải đi tìm cho được một con mắt sống của một người tu hành đem về làm thuốc thì chứng bệnh hiểm nghèo của mẹ tôi mới chữa khỏi được. Tôi vừa đi vừa nghĩ, đến như con mắt sống của một người bình thường còn chưa dễ kiếm, huống hồ là của một người tu hành! Nghĩ đến điều khó khăn này, rồi nghĩ đến mẹ bịnh nằm trên giường, vừa rên siết vừa trông ngóng con mau đem con mắt về làm thuốc, mà lòng tôi đau như cắt ...
- Cậu ạ! Không có gì khó khăn cả. Vừa rồi tôi đã nói với cậu về cái tâm nguyện của tôi. Tôi chính là một kẻ tu hành, và mắt của tôi đúng là mắt của một người tu hành. Tôi xin biếu cậu một con mắt của tôi để cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho bà cụ.
Gã thanh niên vui mừng nhảy nhót:
- Thật sao! Ông hoan hỉ cho tôi một con mắt sao?
- Bao nhiêu tài sản tôi đã đem bố thí cho người hết rồi. Tôi đang muốn tiến thêm một bước nữa trên đường tu hạnh bồ tát là bố thí đến thân thể tôi, nhưng khổ nỗi là chưa có ai cần tới. Hôm nay gặp được cậu tôi thật thấy mãn nguyện. Tôi vui sướng lắm và cảm ơn cậu vô cùng. Vậy cậy hãy dùng cách nào đó để lấy con mắt của tôi đi!
Nhưng gã thanh niên không chịu, nói:
- Không được đâu,! Làm như vậy thì có vẻ như tôi cưỡng đoạt con mắt của ông. Tôi không dám. Ông đã tự nguyện cho tôi thì xin ông hãy tự móc nó ra trao cho tôi.
Xá Lợi Phất cho lời nói của gã thanh niên là có lí, bèn hạ quyết tâm, nén đau đớn, đưa tay móc con mắt bên trái ra, trao tận tay gã, và nói:
- Xin đa tạ cậu đã giúp tôi hoàn thành tâm nguyện. Cậy hãy đem con mắt này về nhà đi!
Gã thanh niên đưa tay tiếp lấy con mắt do Xá Lợi Phất trao cho, nhưng bỗng hét to:
- Thật là vô dụng! Tôi đâu có bảo ông móc con mắt bên trái làm gì! Bịnh của mẹ tôi, theo thầy thuốc bảo, phải dùng con mắt bên phải mới được!
Nghe thế, Xá Lợi Phất lại cho mình quả là đồ vô dụng. Ông tự trách mình sao đã không hỏi trước cậu ta cho cẩn thận. Giờ thì đã lỡ rồi. Phát tâm thì phải cho trọn vẹn; cứu người thì phải hết lòng. Thế thì ta phải móc luôn con mắt bên phải cho cậu ta mới được! Ông bèn an ủi gã thanh niên:
- Cậu đừng giận! Vừa rồi vì tôi quá hấp tấp mà đã quên hỏi cậu trước cho rõ ràng. Tôi đã biết lỗi. Con mắt bên phải của tôi vẫn còn đây, để tôi móc ra đền lại cho cậu đem về làm thuốc chữa bịnh cho mẹ cậu.
Nói xong, Xá Lợi Phất lại cố nén đau đớn, móc luôn con mắt bên phải trao cho gã thanh niên. Tiếp lấy con mắt, không một lời cám ơn, gã lại còn đưa con mắt lên mũi ngửi ngửi, rồi ném mạnh xuống đất và mắng:
- Ông mà là người tu hành gì! Con mắt của ông sao mà hôi thúi khó ngửi quá thì làm sao có thể làm thuốc chữa bịnh cho mẹ tôi được!
Mắng xong, gã lại dùng chân đạp lên con mắt của Xá Lợi Phất. Lúc đó tuy không còn trông thấy gì được nữa, nhưng tai Xá Lợi Phất vẫn nghe biết rõ mọi chuyện. Ông đã nghe gã thanhh niên kia mắng ông. Ông đã nghe tiếng chân gã dẫm đạp lên con mắt của ông đã cho gã. Ông than thầm: “Chúng sinh thật khó độ; tâm bồ tát thật khó phát! Thôi ta cũng không nên vọng tưởng về việc tiến tu hạnh đại thừa nữa làm gì, mà hãy cứ theo con đường tự lợi cũ là hơn”. Vừa nghĩ như vậy thì bỗng trên hư không xuất hiện rất nhiều thiên chúng, đồng thanh nói với Xá Lợi Phất rằng:
- Hỡi vị hành giả kia! Người không nên thối chí như vậy. Gã thanh niên vừa rồi chính là một vị trời hóa hiện để thử đạo tâm của người đấy thôi. Người hãy giữ vững tâm nguyện và hãy tinh tấn dõng mãnh hơn nữa trên đường tu hành!
Nghe mấy lời ấy, Xá Lợi Phất lại tự lấy làm hổ thẹn, tâm bồ tát lại phát sinh mạnh mẽ. Trải qua sáu mươi tiểu kiếp, Xá Lợi Phất vẫn không thối chuyển trên đường tu học, cho đến hôm nay được gặp Phật là liền chứng thánh quả, có được thiên nhãn thông.

Xá Lợi Phất xứng đáng là vị đệ tử hàng đầu của đức Phật. Tôn giả là bậc có trí tuệ hơn người, thần lực trội chúng, mà đối với đức Phật thì trăm điều đều y thuận, chưa từng làm trái lời dạy nào của Ngài. Bởi vậy, trong tất cả đệ tử, tôn giả là người được được tín nhiệm nhất.
Trong lần đầu tiên trở về thăm quê hương Ca Tì La Vệ (Kapilavastu - Kapilavatthu) sau ngày thành đạo, đức Phật đã cho La Hầu La (Rahula) xuất gia theo tăng đoàn tu học. Chính Xá Lợi Phất đã truyền giới sa di cho La Hầu La. Đức Phật cũng đã bảo La Hầu La tôn Xá Lợi Phất làm thầy, phải luôn luôn kề cận để được tôn giả dạy dỗ cho.
Một hôm sau khi La Hầu La theo Xá Lợi Phất đi khất thực trở về, đức Phật trông thấy nét mặt La Hầu La không được vui. Sau giờ ngọ trai, Ngài bèn gọi La Hầu La đến gần hỏi xem trong lòng có gì không vừa ý. La Hầu La cúi đầu thưa:
- Bạch Thế Tôn! Thân phận con chỉ là một chú tiểu, lẽ ra thì không được nói lỗi lầm của bậc trưởng thượng, nhưng nếu không nói thì không ai hiểu được hoàn cảnh của bọn sa di chúng con.
- Ừ, có việc gì con cứ việc nói ra đi!
- Bạch Thế Tôn! Khi các bậc trưởng thượng dẫn chúng con đi thọ thực, quí vị thí chủ cúng dường cho quí ngài toàn thức ăn hảo hạng; còn với bọn sa di chúng con thì họ chỉ cho toàn những thức ăn quá tệ. Con nghĩ, thân thể của mọi người đều cần thức ăn giống nhau, đâu có phân biệt tuổi tác hay giới hạnh. Các bậc trưởng thượng của chúng con chỉ biết thọ dụng sự cúng dường của thí chủ mà không có lòng thương chiếu cố đến chúng con, đã để cho quí vị thí chủ sinh tâm phân biệt trong khi cúng dường.
- Chỉ một việc nhỏ như vậy mà con cũng không nhẫn được hay sao?
- Xin đức Thế Tôn thương xót mà không trách mắng con. Bạch Thế Tôn, ăn uống có đủ chất dinh dưỡng thì thân thể mới khỏe mạnh, khí lực mới tăng trưởng do đó mà tâm mới an lạc để tinh tấn tu tập. Thực sự thì chúng con ngày nào cũng chỉ ăn toàn các thức ăn thiếu dinh dưỡng, cho nên thân thể ngày càng mệt mỏi, khiến cho tâm ý ít khi được chuyên nhất để hành trì hữu hiệu.
Đức Phật cũng thấy những điều La Hầu La nói là đúng sự thật, nhưng vẫn dạy:
- Này La Hầu La! Con rời bỏ hoàng cung đi theo tăng đoàn có phải là vì để nhận sự cúng dường chăng?
- Dạ không phải như vậy, bạch Thế Tôn! Con gia nhập tăng đoàn là để học đạo tu hành.
- Vậy thì con đâu có cần gì phải nói về chuyện ấy. Nếu chỉ vì việc học đạo tu hành thì dù chúng ta có được thí chủ cúng dường chỉ một hột mè hay một hột bắp cũng vẫn là đầy đủ. Thôi con hãy lui đi, hãy lấy việc tu hành làm trọng, đừng để tâm đến chuyện ăn uống nữa!
Tuy đức Phật dạy La Hầu La như vậy, nhưng Ngài cũng thấy việc thí chủ cúng dường tăng chúng với tâm phân biệt là không phải. Bởi vậy, sau khi La Hầu La đi rồi, Ngài lại cho mời Xá Lợi Phất đến. Ngài dạy:
- Thầy Xá Lợi Phất! Hôm nay thầy đã nhận được các thức ăn không trong sạch, thầy có biết không?
Tôn giả nghe Phật bảo thế thì thất kinh, bèn chạy ra ngoài, đem bao nhiêu thức ăn vừa ăn xong cho ói ra hết, rồi trở vào thưa với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Từ khi theo Thế Tôn xuất gia đến giờ, con luôn luôn y theo cách thức khất thực do Thế Tôn chỉ dạy mà hành trì . Con chưa bao giờ trái lời Thế Tôn để xin những thứ đồ ăn không trong sạch.
Tâm ý của tôn giả thế nào thì đức Phật đã thấy rõ, cho nên Ngài giải thích:
- Thầy Xá Lợi Phất! Như Lai biết rất rõ là thầy luôn luôn hành trì pháp chế khất thực thật đúng cách, nhưng đối với tinh thần hòa ái trong nếp sống tăng đoàn thì mình không nên chỉ biết có mình. Pháp chế luôn luôn phải bình đẳng, mà lợi lộc thì cũng phải chia sẻ đồng đều; hơn nữa, là bậc trưởng thượng trong chúng thì lúc nào cũng nên thương yêu và quan tâm săn sóc các thầy tì kheo nhỏ tuổi cũng như các chú sa di chưa trưởng thành! Một điều điển hình là trong lúc đi khất thực, quí thầy nên để tâm đến họ.
Nghe Phật dạy, Xá Lợi Phất đã hiểu rõ sự việc. Tôn giả rất cảm kích đối với lòng từ ái của Phật đối với các đệ tử, nguyện tiếp nhận, ghi nhớ và hành trì lời Phật dạy.

Trong số đệ tử của Phật có một vị tì kheo tên là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), vốn là em họ của Phật. Khoảng mười năm sau khi theo Phật xuất gia, ông bị ma nghiệp làm mê muội tâm linh, đã phản bội đức Phật và tách rời tăng đoàn của Phật.
Một ôm sau giờ ngọ trai, đức Phật và chúng tăng cùng nghỉ ngơi trong giảng đường, bất ngờ, Đề Bà Đạt Đa đến yêu cầu Phật trao quyền lãnh đạo giáo đoàn lại cho ông ta. Đứchật không chấp thuận. Ông bèn la hét giận dữ, nhưng ngài vẫn yên lặng. Ông lại kêu gọi chúng tăng hãy đi theo ông ta. Lúc ấy, em của ông, tôn giả A Nan (Ananda), đứng dậy tiến đến trước mặt ông nói:
- Xin sư huynh đừng có vọng tưởng. Vì sư huynh là bậc huynh trưởng của tôi, nên khi nghĩ đến những tội lỗi nặng nề sư huynh đã tạo ra, nghĩ đến sự đọa lạc mà sư huynh phải chịu trong tương lai, tôi cảm thấy vô cùng xót xa. Đức Thế Tôn là bậc đại từ bi, một người nhu sư huynh thì đâu thể nào so sánh được. Nếu hôm nay mà có hai sư huynh Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây thì nhất định là sư huynh không thể buông lung như thế được ...
Sau đó, với sự ủng hộ nhiệt tình của vua A Xà Thế (Ajatasatru - Ajatasattu), Đề Bà Đạt Đa đã dùng nhiều cách như uy hiếp, hoặc đem lợi lộc dụ dỗ, để níu kéo một số đệ tử của Phật đi theo ông; đó là những vị tì kheo mới xuất gia, nhẹ dạ, lòng tin chưa vững chắc, thấy có lợi lộc và uy thế của vua là đi theo.
Một hôm, nhân lúc các tì kheo đệ tử của Phật bỏ theo Đề Bà Đạt Đa và các đệ tử riêng của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp tại một nơi nọ, Xá Lợi Phất bỗng xuất hiện. Với một phong cách đầy uy lực và trang nghiêm, tôn giả nói với họ:
- Thưa quí huynh đệ! Tôi có mặt ở đây hôm nay cốt xin hỏi quí huynh đệ một câu: Quí thầy xuất gia tu hành là chính vì để thọ nhận sự cúng dường hay là vì sự tu học?
Tất cả đồng trả lời:
- Chỉ vì sự tu học, vì muốn thoát khỏi biển khổ sinh tử.
- Nếu đã như vậy thì tại sao qúi huynh đệ không đi theo con đường chân chánh do đức Phật chỉ dạy, mà lại đem cái lòng tin thuần khiết, tôn quí của mình dâng cho kẻ hoàn toàn bị dao động bởi lợi dưỡng vật chất? Xin qui huynh đệ hãy tỉnh ngộ?
Trong khi tôn giả nói những lời ấy thì từ trên thân thể tôn giả xuất hiện muôn đạo hào quang sáng rỡ. Trong hào quang ấy lại hiện ra từ dung của đức Phật, khiến cho tất cả chúng tì kheo lạc lối ấy bỗng nhiên đều quì cả xuống và nói lên lời sám hối. Tôn giả bèn đưa tất cả trở về lại với tăng đoàn.
Đem lại sự hòa hợp cho tăng đoàn là một công lao vô cùng to lớn của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật hết sức khen ngợi. Riêng Đề Bà Đạt Đa, ông không sợ đức Phật mà lại rất sợ Xá Lợi Phất.
Về sau, vì tội nghiệp quá thâm trọng nên Đề Bà Đạt Đa phải đọa vào địa ngục. Vua A Xà Thế thì sớm biết ăn năn hối lỗi nên đã được cứu độ. Còn tôn giả Xá Lợi Phất thì càng được tăng đoàn kính trọng.

Một lúc nọ đức Phật ngự tại tu viện Kì Viên. Vì thương xót chúng sinh mãi phiêu bạt trong biển khổ sinh tử không nơi nương tựa, luân hồi trong sáu nẻo mà không biết được một nơi nào có an lạc hạnh phúc chân thật để quay về, cho nên Ngài muốn nói một pháp môn để cứu độ; đó là giới thiệu cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà (Amita) và cách thức rất dễ hành trì để được vãng sinh về cõi ấy, nhưng lại sợ những người có căn cơ thấp kém, tin không tới mà không chịu tiếp nhận, Ngài bèn quyết định chọn tôn giả Xá Lợi Phất làm đối tượng nói pháp. Trong số thính chúng lúc bấy giờ cũng gồm đủ những người có các căn cao, vừa, thấp, nhưng vì Ngài biết rõ rằng, chỉ có vị đại trí tuệ ấy mới biết được cái cảnh giới thật thanh tịnh, thật trang nghiêm của cõi Cực Lạc, và mới có được lòng tin chân thật nơi đức Phật A Di Đà. Ngài dạy:
- Này Xá Lợi Phất! Cách thế giới của chúng ta thật xa về phương Tây, có một thế giới tên là Cực Lạc. Vị giáo chủ thế giới ấy là đức Phật A Di Đà, hiện tại đang nói pháp. Thầy Xá Lợi Phất! Vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Bởi vì cõi đó cái gì cũng viên mãn, ở đâu cũng an lạc, không giống như thế giới Ta Bà có quá nhiều khiếm khuyết, quá nhiều thống khổ của chúng ta ở đây. Ở cõi nước ấy, nói về thiên nhiên thì đất đai bằng phẳng. sự vật dồi dào, trong sạch, ngay thẳng, đẹp đẽ; nói về nhân quần xã hội thì mọi thứ tiện ích và nhu yếu cho đời sống con người đều sẵn có đầy đủ, và người ta chỉ dùng đến khi nào cần thiết. Khắp cõi nước ấy, chỗ nào cũng như là đô thị với những kiến trúc đường hoàng, tề chỉnh, chỗ nào cũng là vườn hoa tươi đẹp muôn màu. Thầy Xá Lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà và siêng năng tu học ba mươi bảy phẩm trợ đạo, vun trồng phước đức thì trong tương lai nhất định sẽ được đức Phật A Di Đà tiếp dẫn về thế giới ấy của Ngài. Chúng sinh ở thế giới Ta Bà này, nếu muốn thoát khỏi những khổ não của sinh tử luân hồi thì chỉ cần phát nguyện cầu được vãng sinh về thế giới đó. Như Lai đã từng bảo A Nan lễ bái đức Phật A Di Đà và thầy ấy cũng đã từng thấy được từ quang của Ngài. Đại chúng hãy tin tưởng sâu sắc vào pháp môn khó tin mà Như Lai vừa nói ra; đó mới xác thật  là con đường được cứu độ của chúng sinh.
Tôn giả Xá Lợi Phất hoàn toàn không có chút gì hoài nghi về những điều đức Phật vừa nói. Tôn giả và toàn thể đại chúng đều tin tưởng sâu sắc nơi pháp môn này.

Tôn giả Xá Lợi Phất, đối với giáo pháp của đức Phật thì một mực tin tưởng, tôn kính và thực hành; đối với công việc hoằng pháp thì hết sức chuyên cần; nhưng đối với cá nhân mình thì không bao giờ kể đến công lao; có những khen thưởng, lợi lộc gì cũng nhường cho người khác.
Một lần nọ, đức Phật dẫn chúng tăng đi hành hóa. Lúc về đến thành Xá Vệ thì nhóm tì kheo thường được đại chúng gọi là “lục quần tì kheo”, đã cố đi thật lẹ để về tu viện Kì Viên trước  mọi người. Họ tranh nhau chiếm hết các chỗ ngủ nghỉ tương đối tốt trong chúng, kể cả tịnh thất của tôn giả Xá Lợi Phất. Họ bảo: “Đây là chỗ của đức Phật, thầy ta, ta có quyền cư trú”. Hôm đó Xá Lợi Phất lại về rất trễ. Khi về đến tu viện, trông thấy tịnh thất của mình đã bị nhóm “lục quần tì kheo” chiếm ngụ, tôn giả không phiền hà gì cả, bèn ra gốc cây tĩnh tọa suốt đêm đó. Sáng sớm đức Phật dậy, nghe tiếng ho húng hắng ở ngoài gốc cây. Ngài hỏi:
- Thầy nào ngoài đó? Sao không tĩnh tọa ở trong nội thất?
Tôn giả thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con là Xá Lợi Phất. Vì hôm qua số huynh đệ theo Thế Tôn về tu viện đông quá, các phòng ốc đều không còn chỗ trống nên con tạm nghỉ ở gốc cây một đêm.
Đức Phật nghe vậy thì khen ngợi tôn giả là người có đức nhường nhịn. Tuy vậy, Ngài cũng tạp họp đại chúng để dạy bảo. Ngài hỏi:
- Này quí thầy! Trong giáo đoàn chúng ta, những ai xứng đáng được dùng giường tốt nhất, được hưởng thọ các đồ ăn thức uống ngon nhất?
Đại chúng đều trả lời khác nhau. Người thì cho là những vị tì kheo xuất thân từ hoàng gia quí tộc; người thì cho là những vị tì kheo xuất thân từ chủng tộc Bà la môn; người thì cho là những vị tinh tấn tu hành và chuyên cần bố giáo. Cuối cùng Phật dạy:
- Này quí thầy! Ngày xưa trong núi Tuyết có một con chim, một con vượn và một con voi cùng kết bạn sống chung với nhau. Tuy vậy, vì thân thể, sức vóc và trí khôn của chúng đều khác nhau, nên con nào cũng tự cao tự đại, không tôn kính lẫn nhau. Về sau cả ba đều tự biết như vậy là không phải, cho nên đã cùng thỏa thuận với nhau là con nào tuổi tác cao nhất thì được hai con kia tôn kính và nghe lời dạy bảo. Nhờ vậy, sau khi mạng chung, chúng đều được chuyển sinh về các cõi lành. Cũng vậy, nếu quí thầy biết tôn kính các bậc trưởng thượng thì chẳng những trong hiện tại được mọi người khen ngợi mà đời sau sẽ được sinh về các cõi lành. Này quí thầy! Trong giáo pháp của Như Lai không có các giai cấp cao thấp, nhưng có các vị trưởng lão mà pháp lạp cũng như giới lạp đều cao, đáng phải được đại chúng tôn kính, cúng dường, phụng sự và lễ bái. Chính những vị trưởng lão ấy mới xứng đáng được dùng giường tốt nhất, được hưởng thọ các đồ ăn uống ngon nhất.

Tuy là một vị trưởng lão đã chứng quả thánh, nhưng tôn giả Xá Lợi Phất vẫn tỏ lòng kính trọng đối với quí vị phụ nữ đạt được những thành quả cao quí trong việc tu học.
Một hôm, lúc đang ngồi thiền trong một khu rừng ở ngoại ô kinh thành Vương Xá, bỗng tôn giả nghe tiếng kêu lớn của ni sư Ưu Ba Tiên Na (Upasena) cũng đang ngồi thiền ở một hang núi gần đó. Tôn giả lập tức tìm đến nơi. Thấy tôn giả, ni sư thưa:
- Bạch thầy! Vừa mới đây, trong lúc đang ngồi thiền, con cảm thấy như có con gì đang bò trên người con. Mới đầu con không chú ý đến, nhưng sau thì con biết đó là một con rắn cực độc, và nó đã cắn con. Chắc chắn là con sắp chết. Trong thời khắc ngắn ngủi này còn lại này. Xin thầy hoan hỉ tìm các mời quí thầy và quí ni sư trong vùng này đến đây cho con được từ biệt.
Trong lúc nói lên những lời này, ni sư Ưu Ba Tiên Na thật bình tĩnh, không hề hoảng hốt, đau buồn như thể không có việc gì xảy ra. Xá Lợi Phất nghĩ là tình trạng không đến nỗi nào, cho nên nói:
- Tình trạng không đến nỗi nghiêm trọng đến thế đâu, ni sư ạ! Người bị rắn độc cắn thì sắc diện biến đổi ngay. Tôi thấy sắc diện của ni sư vẫn không có chút gì thay đổi.
- Bạch thầy! Thân thể con người là do “tứ đại” và “ngũ uẩn” tập hợp cùng các nhân duyên khác mà thành, nó không có chủ thể, vốn là vô thường, là không; đó là đạo lí mà con đã thể ngộ được. Vậy thì con rắn làm sao có thể cắn cái “không" được?
Xá Lợi Phất bấy giờ biết rõ ni sư Ưu Ba Tiên Na đã thật sự đạt đạo. Tôn giả tán thán:
- Ni sư nói rất đúng; và như thế là ni sư đã thoát khỏi được sự đau đớn của thể xác, đã dùng huệ mạng của mình để duy trì sắc diện không biến đổi.
Nói xong, tôn giả tức tốc đi thông báo cho quí vị tì kheo và tì kheo ni đang tu tập quanh vùng. Họ liền tụ họp về hang núi, cùng dìu ni sư Ưu Ba Tiên Na ra khỏi hang. Lúc bấy giờ, nọc độc của rắn đã chạy khắp châu thân, tì kheo ni Ưu Ba Tiên Na, thần sắc vẫn an nhiên như không hề có việc gì xảy ra, liền nhập niết bàn. Đứng trước con người giải thoát đó, đại chúng đều hoan hỉ tán thán. Tôn giả Xá Lợi Phất nói với mọi người:
- Người tu hành điều phục được tâm ý thì xem cái chết của thể xác như đổ bỏ chén nước độc, như bịnh nặng được lành. Sắp chết mà tâm ý vẫn bất động, thần sắc vẫn an nhiên là vì người đã dùng con mắt trí tuệ để nhìn các tướng trạng của thế gian, đã vượt ra khỏi ngôi nhà lửa. Thật là tuyệt đẹp!
Lời tán thán của tôn giả Xá Lợi Phất dành cho tì kheo ni Ưu Ba Tiên cũng tức là cái nhìn của Phật Giáo đối với sự chết. Những vị tu hành đạt đạo trong Phật Giáo đều có cái nhìn đối với cái chết hoàn toàn giống nhau như vậy.

Ngày tháng trôi qua, tuổi ngày một cao, năm đó tôn giả Xá Lợi Phất đã gần tám mươi. Tuy vậy, vì tâm nguyện hoằng pháp độ sinh vẫn mạnh mẽ, tôn giả đã không ngần ngại tuổi già sức yếu, không quản gian nan khó nhọc, cho nên, sau khi khóa an cư mùa mưa vừa chấm dứt tại tu viện Kì Viên, tôn giả liền xin phép đức Phật đi du phương hóa đạo. Phật hứa khả, đồng thời khen ngợi trước đại chúng cái tinh thần vì đạo và vì người của tôn giả.
Tôn giả rời tu viện không bao lâu thì bỗng một vị tì kheo đến trước đức Phật thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Xá Lợi Phất lần này đi vân du không phải với tâm niệm chân chính, không phải vì hoằng dương Phật pháp, mà chính vì đại đức đã khinh khi làm nhục con, rồi sinh ra hổ thẹn, không muốn nhìn thấy mặt con nữa, cho nên kiếm cách ra đi mà thôi.
Việc nói xấu người khác ở sau lưng như vậy đã làm cho đức Phật không hài lòng. Ngài bèn cho người tức tốc theo mời tôn giả Xá Lợi Phất quay về tu viện. Tôn giả vào thẳng giảng đường hầu Phật. Bấy giờ, trước mặt đông đủ đại chúng, Ngài hỏi tôn giả:
- Thầy Xá Lợi Phất! Sau khi thầy rời tu viện không lâu, có một thầy lên đây nói với Như Lai rằng, chính thầy đã khinh khi làm nhục thầy ấy, việc đó có thật không?
Tôn giả cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Từ khi con xuất gia theo Thế Tôn tu học, đến nay đã gần tám mươi tuổi. Con nhớ rất rõ, trong suốt khoảng thời gian này, con chưa từng sát hại một sinh mạng; chưa từng nói một lời hư vọng; ngoài việc tuyên dương chân lí ra, con chưa hề nói đến các chuyện lợi, hại, được, mất, hoặc bàn luận về sở trường hay sở đoản của bất cứ một người nào. Trong ba tháng an cư vừa qua, ngày ngày con đều sám hối, không hề để mất chánh niệm. Tâm con trong vắt như ngọc bích, không có một mảy may bất bình, thì có lí nào con lại dám khinh khi làm nhục người khác! BạchThế Tôn! Bùn đất quả thật là có đức nhẫn nhục. Bất luận là đồ vật dơ dáy dến thế nào nó cũng không cự tuyệt; nó nhận tất cả những thứ như phân, nước tiểu, máu, mủ, đờm, dãi v.v... như nhận thức ăn ngon ngọt. Tấm lòng của con đối với mọi người mà con xin bộc bạch trước Thế Tôn hôm nay, cũng giống như bùn đất vậy. Bạch Thế Tôn! Dòng nước trong kia, bất kể là đồ vật tốt xấu, nó đều rửa sạch; tấm lòng của con đối với mọi người không hề có niệm yêu ghét, giống như dòng nước kia vậy. Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét sạch rác bụi. Trong lúc quét, nó không lựa chọn rác tốt rác xấu. Tấm lòng của con đối với mọi người cũng như cây chổi vậy, không hề có niệm phân biệt. Bạch Thế Tôn! Tâm con thường xuyên an trú trong chánh niệm, quyết không thể khinh suất đến nổi làm nhục thầy ấy. Trong khi con thưa những lời này với Thế Tôn thì con đã tự biết tâm của con thế nào; và chắc hẳn vị tì kheo kia cũng đã tự biết tâm của mình. Nếu quả thật là con có lỗi thì con sẽ xin sám hối trước thầy ấy để cho tâm con không bị ray rứt.
Bằng thái độ khiêm cung nhưng cương nghị, tôn giả Xá Lợi Phất đã bày tỏ tấm lòng chân thành của mình trước đức Phật, khiến cho toàn thể đại chúng, không ai là không cảm động. Đức Phật bèn bảo vị tì kheo đã hủy báng Xá Lợi Phất:
- Thầy đã hủy báng một vị trưởng lão thì không thể không sám hối. Thầy đã có ý làm cho tăng đoàn khởi lên cuộc tranh luận, và như thế tức là thầy không có tinh thần xây dựng sự hòa hợp cho tăng đoàn. Nếu thầy không chân thành hối lỗi thì rồi đây sẽ phải chịu quả báo đau khổ không cùng.
Vị tì kheo kia nghe lời Phật dạy, vội vàng đến quì trước Phật, khẩn cầu:
- Bạch Thế Tôn! Đại đức Xá Lợi Phất quả thật là bậc cao thưọng. Đối với một vị có trí tuệ và hùng lực như vậy mà con đã không biết hộ trì và học tập, lại còn đem lòng tật đố, xin Thế Tôn thương xót, cho con được cơ hội sám hối tội lỗi!
Một cách từ hòa, đức Phật bảo:
- Thầy hãy đến xin sám hối với thầy Xá Lợi Phất!
Vị tì kheo kia liền đến quì trước Xá Lợi Phất. Tôn giả lấy tay rờ đầu vị tì kheo và dịu dàng bảo:
- Trong giáo pháp của đức Thế Tôn, sự sám hối thật vô cùng hữu ích. Làm người ai cũng có thể lầm lỗi, nhưng có lỗi mà biết sửa đổi thì đó là việc lành rất lớn. Hôm nay tôi chấp nhận sự sám hối của thầy, từ nay thầy đừng bao giờ phạm lỗi nữa!
Thái độ và ngôn từ của Xá Lợi Phất đã làm cho đại chúng hoàn toàn an lạc.

Lúc ấy đức Phật ngự tại tu viện Trúc Lâm ở ngoại ô kinh thành Vương Xá. Một hôm tôn giả Xá Lợi Phất đang nhập định kim cương trong núi Kì Xà Quật (Grdhrakuta - Gijjhakuta) thì có hai con quỉ đến gần. Nguyên đó là hai con quỉ đang trấn thủ ở núi này, một con thì hiền lành tên là Ưu Ba Ca La và một con thì hung ác tên là Già La. Khi thấy Xá Lợi Phất đang ngồi nhập định, con quỉ dữ bảo con quỉ hiền rằng:
- Này Ưu Ba Ca La, ta muốn đánh nát đầu ông sa môn kia quá!
Quỉ hiền cản ngăn:
- Đừng nói bậy! Vị sa môn kia là đệ tử của đức Phật. Ông ta là người thông minh trí tuệ số một mà uy đức thần lực cũng cao thâm. Nếu ngươi có ý đồ xấu xa đối với ông thì trong tương lai sẽ vĩnh viễn trầm luân, chịu khổ báo vô lượng.
- Ngươi sợ sa môn lắm vậy sao! Chính sa môn là bọn dễ ăn hiếp nhất trên đời này. Để ngươi xem, chỉ một quyền này của ta là cái đầu ông ấy sẽ nát vụn như cám!
- Đúng như ngươi nói, ta rất sợ quí vị sa môn! Tuy họ là những người có thể ăn hiếp được, nhưng đó là vì họ tu hạnh nhẫn nhục. Mặc dù vậy, đức lực của họ uy mãnh vô cùng, nếu ngươi đánh họ, họ chỉ có thể bị đau đớn trong chốc lát, nhưng còn ngươi thì sẽ vĩnh viễn khổ đau ...
Nhưng dù con quỉ hiền nói gì thì con quỉ dữ vẫn không thèm nghe theo. Nó liền vung tay, nhắm ngay đỉnh đầu tôn giả đánh xuống! Con quỉ hiền không dám nhìn, bèn ẩn thân đi mất. Nói thì chậm chứ cú đánh của con quỉ dữ lúc đó lẹ lắm. Tôn giả bỗng cảm thấy như có chiếc lá rụng trên đầu, bèn xả định, mở mắt ra thì thấy một con ác quỉ mình mẩy máu me dầm dề, và liền đó, nó đọa ngay vào địa ngục.
Tôn giả đứng dậy, y áo chỉnh tề, trở về tu viện Trúc Lâm bái kiến đức Phật. Thấy tôn giả, đức Phật hỏi:
- Thầy Xá Lợi Phất! Thân thể thầy có được an lành không?
- Bạch Thế Tôn! Con vẫn không có bịnh gì cả, mà chỉ cảm thấy hơi đau trên đầu mà thôi.
- Thầy Xá Lợi Phất! Hôm nay vì thầy nhập kim cương định nên quỉ Già La đã không thể đả thương thầy được; nếu không thì, thầy biết không, một cái đánh của nó có thể chẻ hai núi Tu Di! Thế mới biết, thần lực của kim cương định lớn lao là như vậy, tất cả quí thầy nên tinh tấn tu trì.

Lúc bấy giờ Phật đang ngự trong một khu rừng thuộc làng Trúc Phương, ở ngoại ô thành Tì Xá Li (Vaisali- Vesali). Hôm đó sau thời pháp thoại, đức Phật đã thông báo cho toàn thể đại chúng biết rằng, trong ba tháng nữa Ngài sẽ nhập niết bàn. Lời thông báo đó của Ngài đã làm cho mọi người kinh hoàng, sửng sốt, và đau buồn cực độ. Riêng Xá Lợi Phất thì xót xa đến nỗi không muốn nhìn thấy đức Phật nhập niết bàn. Trong lúc thiền định, tôn giả quán niệm: “Trong quá khứ, các vị đệ tử thượng thủ của chư Phật đều nhập niết bàn trước chư Phật. Ngày nay mình cũng là đệ tử thượng thủ của Phật, vậy mình cũng nên nhập niết bàn trước Phật".
Nghĩ thế, tôn giả bèn xuất định, đến quì trước đức Phật, thưa:
- Bạch Thế Tôn! Giờ đây con muốn nhập niết bàn, xin Thế Tôn hứa khả cho.
Đức Phật chăm chú nhìn Xá Lợi Phất, hồi lâu mới hỏi:
- Vì sao thầy muốn nhập niết bàn sớm vậy?
- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã bảo, không còn bao lâu nữa Thế Tôn sẽ nhập niết bàn. Thế Tôn đã ban cho quá nhiều ân đức lớn lao, làm sao con cầm lòng được khi nhìn thấy Thế Tôn nhập niết bàn! Vả lại, Thế Tôn đã từng dạy, trong quá khứ, các vị đệ tử thượng thủ của chư Phật đều nhập niết bàn trước chư Phật, thì con nghĩ, nay cũng vậy, đây chính là lúc con nên nhập niết bàn. Xin Thế Tôn từ bi hứa khả.
- Thầy muốn nhập niết bàn tại đâu?
- Bạch Thế Tôn! Làng Ca La Tí Noa Ca là quê hương của con, nơi đó, thân mẫu con nay đã trên một trăm tuổi và vẫn còn khỏe mạnh. Con muốn về đó để thăm thân mẫu con lần cuối, sau đó con sẽ nhập niết bàn ngay trong căn phòng mà trước kia thân mẫu đã từng sinh dưỡng con.
- Thầy đã muốn thế thì Như Lai cũng không thể ngăn cản được. Có điều, thầy là đệ tử thượng thủ của Như Lai, vậy trước khi lên đường, thầy cũng nên có vài lời giáo huấn để lại cho đại chúng.
- Bạch Thế Tôn! Từ vô lượng kiếp con đã mong cầu được sinh nhằm vào thời đại có Phật trụ thế, và cuối cùng, kiếp này con đã được mãn nguyện. Niềm vui mừng được gặp Phật của con thật trên đời không gì có thể so sánh được! Trong hơn bốn mươi năm qua, nhờ ơn Thế Tôn từ bi dạy bảo mà một người ngu si như con đã mở được con mắt trí tuệ, thấy rõ được chân lí. Niềm hoan hỉ và lòng cảm kích của con đối với Thế Tôn thật không thể dùng ngôn từ của thế gian để diễn tả hết được. Giờ đây, không còn bao lâu nữa con sẽ từ giã cõi đời. Nhờ hưởng thọ nước pháp cam lộ của Thế Tôn mà con giải thoát được tất cả những ràng buộc của thế gian, không còn khổ não, và nhập vào cảnh giới niết bàn tự tại. Bạch Thế Tôn! Đó là mấy lời từ biệt của con, xin Thế Tôn cho con được đảnh lễ!
Tôn giả đảnh lễ đức Phật. Không khí trong giảng đường lúc bấy giờ thật nghiêm trang, trầm mặc... Đức Phật bảo Xá Lợi Phất:
- Thầy Xá Lợi Phất! Tất cả những gì Như Lai đã giảng nói, thầy đều đã lĩnh hội. Bây giờ Như Lai thọ kí cho thầy: Trong đời vị lai, thầy sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, giáng thế giáo hóa chúng sinh để hoàn thành đạo quả vô thượng.
Đức Phật nói xong liền bảo đại chúng tiễn tôn giả Xá Lợi Phất lên đường. Chư tăng đều cầm hương hoa tiễn đưa tôn giả. Họ đi thành hàng, thật yên lặng, thật trang nghiêm, nhưng cũng thật buồn! Hầu như không ai cầm được nước mắt...

Đại chúng yên lặng đi theo tôn giả Xá Lợi Phất được một quãng đường thì tôn giả dừng bước. Đại chúng cũng dừng bước theo. Tôn giả xoay mặt lại đối trước đại chúng, cung kính nói:
- Tôi xin cảm tạ tất cả đại chúng. Quí vị tiễn tôi đến đây như vậy là đủ rồi. Bây giờ xin phép quí vị cho một mình chú Quản Đầu theo tôi, còn tất cả quí vị xin trở lại tu viện để tiếp tục tu học. Thưa đại chúng! Việc tu học là thiết yếu hơn hết, tôi hi vọng quí vị luôn luôn lỗ lực, tinh tấn để chóng thoát khỏi những ràng buộc của ưu bi khổ não và nhập vào thế giới của tự tại, giải thoát. Đức Thế Tôn xuất hiện ở thế gian cũng giống như bông ưu bát la nở hoa, hàng mấy ngàn năm mới có một lần. Được sinh làm người đã là việc khó, mà được có lòng tin chân chính, chắc thật, tinh khiết, thuần thành nơi Tam Bảo lại càng khó hơn. Nay chúng ta đã được sống đời xuất gia phạm hạnh, được đức Thế Tôn tự thân dạy dỗ, đó là việc hiếm có trong cả trăm ngàn muôn ức kiếp. Tất cả mọi sự đều là vô thường. Xin quí vị một lòng tu tập tinh cần mãi mãi để vượt thoát khổ đau và đạt được niết bàn tịch tịnh. Đó mới là nơi an trú vĩnh viễn của chúng ta. Tôi cũng rất trông mong quí vị, hãy vì đức Thế Tôn mà tuyên dương rộng rãi giáo pháp của Người. Tất cả hãy vì phúc lợi của nhân sinh chứ đừng vì danh lợi của riêng cá nhân mình. Xin bái biệt!
Nghe mấy lời của tôn giả, đại chúng vô cùng xúc động. Họ đều biết rằng, lần ra đi này của tôn giả sẽ là lần ra đi vĩnh viễn. Tôn giả sẽ không bao giờ trở lại nữa, Cho nên những lời của tôn giả hôm nay cũng chính là những lời nhắn nhủ sau cùng của tôn giả để lại cho họ. Không ai là không cung kính, không ai là không ngậm ngùi thương tiếc! Bởi vậy, dù tôn giả đã nhắc lại lời cáo biệt và xin đại chúng quay gót, nhưng ai cũng quyến luyến, cứ yên lặng đứng tại chỗ, không nỡ rời tôn giả. Không biết làm sao hơn, tôn giả đành quay lưng bước đi... Và đại chúng vẫn đứng yên lặng nhìn theo... Họ nghĩ đến sự việc “từ nay sẽ không ai còn được nhìn thấy bậc trí tuệ đệ nhất ấy nữa!”, bất giác mọi người đều rơi lệ! Dù đại chúng đều là những vị đã giác ngộ, nhưng tình người, tình đạo và tình bạn vẫn luôn luôn là những thứ tình cảm chân thật trong lòng mọi người.

Sau khi bái biệt đức Phật và tăng đoàn, trên đường về cố hương, trong lòng tôn giả Xá Lợi Phất đã khởi sinh nhiều suy nghĩ; nhưng không vì vậy mà bị loạn động, trái lại, tâm ý tôn giả bấy giờ như trở nên sáng rỡ hơn bao giờ hết. Tôn giả thấy mình như đang đứng trên đỉnh ngọn Tuyết Sơn, và toàn thể vũ trụ lúc ấy đều nổi hiện rõ rệt trong tâm trí; bất giác tôn giả cảm khái vô hạn ...
Khi về gần đến làng cũ thì mặt trời cũng vừa lặn, chỉ còn một vệt ráng đỏ ở chân trời, tôn giả bèn ngồi xuống một bên đường để nghỉ ngơi. Bỗng nhiên, người cháu của tôn giả là Ưu Bà Li Bà Đa chạy tới đảnh lễ, nhân đó tôn giả hỏi:
- Bà nội có ở nhà không cháu?
- Thưa tôn giả, bà nội cháu có ở nhà.
- Cháu hãy về thưa với bà là bác vừa trở về!
- Dạ!
- Cháu thưa với bà hãy cho người quét dọn sạch sẽ căn phòng khi xưa bà đã sinh ra bác. Bác ngồi nghỉ ở đây một lúc rồi sẽ về.
- Dạ!
Người cháu đâu có biết tôn giả về nhà để làm gì, cho nên chỉ một mực vâng dạ và chạy mau về nhà để thưa lại cho bà nội biết.
Đã lâu lắm rồi Xá Lợi Phất chưa từng về thăm nhà, nay đột nhiên được tin con về thì cụ bà vui mừng không kể xiết. Tuy bây giờ Xá Lợi Phất đã 80, nhưng đối với cụ bà thì tôn giả vẫn là đứa con thơ của mình như tự thuở nào ... Quét dọn sạch sẽ căn phòng ngày xưa đã sinh ra Xá Lợi Phất ư? Thật lạ lùng! Nhưng niềm vui sắp được gặp con ngay trong chốc lát nữa đây đã choáng hết tâm hồn cụ, đâu cần phải thắc mắc điều gì!
Căn phòng vừa được quét dọn sạch sẽ xong thì tôn giả cũng vừa về tới. Cụ bà cùng cả nhà đều vui mừng đến chảy nước mắt. Cụ nói:
- Cuối cùng rồi đại đức cũng đã về!
Tôn giả cũng tỏ nỗi vui mừng được gặp lại mẹ và mọi người trong nhà. Nhưng liền đó thì tôn giả thưa ngay với cụ bà về ý định của mình để cho bà cụ và mọi người trong nhà rõ. Cụ bà nghe thế thì kinh hoàng tột độ! Tôn giả vội trấn tĩnh:
- Xin mẹ hãy bình tĩnh. Sự nhập niết bàn của con là điều nên hoan hỉ, vì nó khác với cái chết của người thường. Lúc này tâm con hoàn toàn yên ổn và sáng suốt. Đời này con đã may mắn được gặp Phật và được hóa độ, được cứu ra khỏi cái biển mê sinh tử, được giải thoát khỏi những khổ đau của phiền não, hoàn toàn không còn một sự sợ hãi nào. Hôm nay con về đây là để nhập niết bàn. Xin mẹ hãy hoan hỉ lên, trong đời ai lại không có lúc chết, nhưng nếu chết không mê muội để thường trú trong cảnh giới niết bàn tịch tịnh như con hôm nay thì đó là hạnh phúc lớn lao.
Cụ bà tuy rất buồn nhưng cũng hiểu được những điều tôn giả vừa nói. Cụ thấy rõ được sự đẹp đẽ cùng sự tự do giải thoát của con mình trong lúc chuẩn bị lìa đời, bất giác trong tâm cụ cũng khởi lên niềm hoan hỉ vô biên. Cụ ước mong sao đến lúc cụ lâm chung cũng được như vậy ...
Bấy giờ tôn giả tụng lại những bài pháp ngữ của đức Phật cho cụ bà và mọi người nghe. Cụ bà rất hiểu tâm ý của tôn giả, liền nói:
- Đại đức nói rất đúng, vượt thoát sinh tử, tâm không mê muội đi vào cảnh giới niết bàn là hạnh phúc vô thượng. Mẹ rất hoan hỉ. Thôi đại đức hãy đi nghỉ một chốc.
Cụ bà tuy nói thế nhưng mắt vẫn rơi lệ, liền trở về phòng riêng ...

Sau khi cụ bà và mọi người đã ra ngoài hết, tôn giả bảo chú thị giả Quản Đầu:
- Con hãy sang phòng bên cạnh nghỉ đi, một mình thầy ở đây được rồi.
Đến nửa đêm hôm ấy thì tin tức “tôn giả Xá Lợi Phất về quê để nhập niết bàn" đã được truyền đi khắp làng. Phần đông dân làng đều đã qui y Tam Bảo, nghe thế đều lập tức kéo nhau đến tụ tập trước nhà tôn giả; thậm chí, vua A Xà Thế lúc đó đang có mặt trong kinh thành Vương Xá, nghe tin cũng tức tốc dẫn triều thần cùng đến. Tất cả mọi người đều mong được chiêm ngưỡng tôn giả lần chót cũng như được nghe những lời giảng dạy sau cùng của tôn giả. Chú thị giả Quản Đầu thấy thế, sợ mọi người làm kinh động đến tôn giả, liền ra sắp xếp chỗ ngồi cho họ, xin họ ngồi yên lặng để chờ tôn giả tiếp kiến.
Đêm đã khuya lắm rồi, mọi người vẫn ngồi im lặng chờ đợi! Người ta trông thấy một cây đèn dầu trong căn tịnh thất của tôn giả, ngoài ra thì hoàn toàn yên lặng, không một tiếng động nào...
Cho đến khi trời rạng sáng, tôn giả gọi Quản Đầu, hỏi:
- Có ai đến ở ngoài phải không?
Dạ phải! Dân làng nghe nói thầy về đây để nhập niết bàn nên đến cầu kiến rất đông; cả đức vua cũng đến nữa.
- Vậy à! Con ra mời quí vị ấy vào cả trong này.
Quản Đầu liền ra ngoài mời vua A Xà Thế và mọi người vào nhà. Những người từ trước chỉ nghe tên mà chưa từng thấy mặt tôn giả, bây giờ được dịp này, họ mừng rỡ vô cùng. Tuy vậy, họ vận không vội vàng hấp tấp, tuần tự đi vào nhà trong im lặng, không hề gây tiếng động. Khi căn phòng đã đầy người, những người không vào được thì đứng lại ở ngoài cửa trong im lặng. Khi đại chúng đã yên vị, tôn giả lên tiếng:
- Quí vị đã đến thật đúng lúc. Tôi cũng đang muốn gặp quí vị để thăm nhau lần cuối cùng. Hơn bốn mươi năm qua tôi may mắn được xuất gia theo Phật, hoặc những khi tu học ở bên cạnh Người, hoặc những lúc vâng mệnh đi các nơi hành hóa, chưa bao giờ tôi khởi lên một niệm không vui đối với vị ân sư ấy; trái lại, niềm cảm kích của tôi đối với Người cứ càng ngày càng dâng cao. Đối với giáo pháp sâu rộng như biển cả của Người vẫn còn nhiều điều tôi chưa lãnh hội trọn vẹn được; hôm nay nghĩ đến mà tôi thấy hổ thẹn trong lòng. Điều tôi muốn nói với quí vị hôm nay, là xin quí vị ghi nhớ rằng, chúng ta sinh ta đời được gặp Phật trụ thế là việc khó khăn vô cùng, muôn ngàn kiếp không dễ gì có được. Cho nên quí vị phải vâng theo lời dạy của Người mà tinh tấn tu học. Của báu trong biển Phật pháp tuy rất nhiều, nhưng nếu quí vị không hết lòng tìm cầu thì không thể nào có được. Tôi không còn gì để nắm giữ nữa. Hôm nay tôi muốn nhập vào cảnh giới niết bàn tịch tịnh, vĩnh viễn thường trú trong cái vũ trụ bất sinh bất diệt. Xin cáo biệt quí vị!
Tôn giả nói xong, nằm nghiêng bên trái, an trú trong đại định, rồi nhập niết bàn! Mới trước đó nghe tôn giả nói, nhìn sắc diện an tịnh của tôn giả, có ai biết đó là người sắp lìa trần! Bởi vậy vua A Xà Thế và đại chúng đều cung kính, bội phục và thương cảm vô cùng...

Sau khi tôn giả Xá Lợi Phất nhập diệt được bảy ngày, Quản Đầu bèn đưa nhục thân của tôn giả lên hỏa đàn để làm lễ trà tì; rồi lại thỉnh xá lợi của tôn giả đem về chỗ Phật đang ngự. (Bấy giờ là cuối mùa an cư thứ 45, Phật đang ngự tại vùng ngoại ô thành phố Tì Xá Li, và đó là mùa an cư cuối cùng trong đời đức Phật - Chú thích của người dịch). Trước hết Quản Đầu đi tìm tôn giả A Nan và thuật lại sơ qua sự việc. Mặt đầm đìa nước mắt, tôn giả A Nan dẫn Quản Đầu đến hầu Phật để trình lên một cách cặn kẻ về sự viên tịch của tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật im lặng lắng nghe. Quản Đầu trình xong, vì quá bi thương, tôn giả A Nan lại khóc thành tiếng. Đức Phật phải trấn tĩnh:
- Thầy A Nan! Thầy không nên bi thương quá như vậy! Thầy Xá Lợi Phất viên tịch không phải là điều cao quí sao!
A Nan cung kính thưa:
- Bạch Thế Tôn! Su huynh Xá Lợi Phất của chúng con là người có trí tuệ cao tột, chuyên trì giới luật, oai nghi nghiêm mật, có biện tài thuyết pháp, suốt đời nhiệt tình với sự nghiệp hoằng hóa độ sinh, điều đó không phải chỉ có chúng con biết, mà tất cả nhân gian đều xưng tán. Nay đột nhiên sư huynh chúng con không còn tại thế nữa, vì nghĩ đến tiền đồ của chánh pháp, của giáo đoàn ngàn năm về sau, cho nên con rất đau buồn. Không những chỉ một mình con đau buồn mà tất cả mọi người, ai cũng không cầm lòng được!
Đức Phật lại an ủi:
- Thầy Xá Lợi Phất tuy không còn tại thế nữa nhưng giáo pháp vẫn còn đó. Vô thường vốn là thật tướng của thế gian, cũng như sự sinh diệt vốn là đạo lí tự nhiên của vũ trụ. Không còn bao lâu nữa chính Như Lai cũng sẽ nhập niết bàn! Quí thầy lúc đó cũng đừng nên thất vọng, vì giáo pháp của Như Lai vẫn còn nguyên vẹn chứ không mất theo Như Lai. Dù hàng ngàn, hàng vạn năm về sau, nếu bất cứ ai giữ được lòng tin chắc thật nơi Như Lai thì Như Lai vẫn luôn luôn có mặt trong tâm trí họ và hộ trì họ. Quí thầy nên nương dựa vào chánh pháp mà không nên nương dựa vào ai khác.
Dạy xong mấy lời, đức Phật tiếp lấy xá lợi tôn giả Xá Lợi Phất do Quản Đầu dâng lên, đưa ra trước đại chúng, Ngài dạy tiếp:
- Quí vị tì kheo! Linh cốt này đây, mới mấy ngày trước thì chính là vị Đại Trí Xá Lợi Phất. có trí tuệ rộng lớn vô biên, trừ Như Lai ra thì không ai có thể sánh bằng. Thầy ấy đã chứng ngộ được pháp tánh, sống đời thiểu dục, tri túc, thường tu tập thiền định, luôn luôn dũng mãnh, tinh tấn, nhiệt tình vì giáo pháp và vì nhân sinh, công năng hàng phục ngoại đạo và tuyên dương chánh pháp thật cao dầy. Thầy Xá Lợi Phất đã hoàn toàn dứt trừ mọi khổ não, chứng được đạo quả giải thoát. Này quí thầy! Hãy chiêm ngưỡng đi! Đây là xá lợi vị trưởng tử của Như Lai!
Đức Phật nói lời ấy xong thì tất cả đại chúng không ai bảo ai đều cúi đầu thành kính đảnh lễ trước xá lợi của tôn giả Xá Lợi Phất.
Tôn giả Xá Lợi Phất tuy đã viên tịch, nhưng tinh thần của ngài vẫn vĩnh viễn tồn tại ở thế gian.


Nguồn: http://www.tangthuphathoc.net




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét