“Thế nào được gọi là Pháp thân?”
“Không sinh không diệt, không có chỗ trụ, không phân biệt, không tách rời, thoát khỏi thế giới nhị nguyên.” Nói xong đức Thích Ca liền biến mất. Ngay lúc đó đức Tsangpa Gyare liền thấu hiểu ý chỉ trả lời của đức Thích Ca. Ngài cảm thán hát lên:
"Kính lễ Kim Cương thượng sư
Đi tìm xem có "Tôi" tồn tại
Kẻ du già áo vải Gyare
Khắp vương quốc cất bước du hành,
Mỗi khi nhìn thấy người mắc lỗi,
Chính lỗi mình lại chợt nhận ra
Ác hạnh ấy sao chẳng tận trừ?
Dù đầy rẫy niềm vui thế tục
Quê hương ta - năm độc ngục tù,
Nơi tật đố, chấp trì tăng trưởng
Quê hương ấy sao chẳng xả ly?"
Một hôm, bậc Thượng sư cho phép được quay về nghiên cứu học hỏi, bậc Thượng sư đã bảo rằng: “Ngài hãy trở về Leu Chhung (là quê của Ngài Tsangpa Gyare)”. Nghe xong Ngài suy ngẫm nếu bậc Thầy không hoan hỷ thì việc học hành của ta có ích gì? Tại sao ta lại làm cho bậc Thượng sư phải buồn. Ngay lập tức Ngài liền xin sám hối xin từ bỏ ý định đó. Bậc Thầy liền nói đó là người chân thật thực hành giáo pháp, bậc Thượng sư vô cùng hoan hỷ. Ngài tiếp tục học và nhận các khẩu truyền từ bậc Thượng sư và ở lại bên Thầy hơn 6 năm. Đến năm 28 tuổi, Ngài xin đi nhập thất. Bậc thượng sư dạy hãy ở lại đây chớ có đi. Sau này con hãy vì ta mà trông nom tự viện Naphu. Đức Lingchen Repa đã huyền ký: “Trong tương lai con sẽ kiến lập nên 2 tự viện nổi tiếng là Druk và Ralung." Sau đó, Ngài lại xin phép Thầy đi đến vùng Lhodrag Kharchhu. Bậc Thượng sư dạy rằng: “Ở Lhodrag Kharchhu có một kho tàng kinh điển ”6 pháp vị bình đẳng” của Naropa cất giữ ở đó chỉ có dòng Truyền thừa của chúng ta mới có, ngoài ra các phái khác đều không có. Giáo pháp này được truyền từ đức Naropa xuống Marpa, Ngài Marpa sau đó truyền cho con trai mình là Tiphusang Ngaga Dongpo, đến lượt mình lại truyền tiếp xuống Retrungpa. Ngài đã dặn tổ Retrungpa: “ Sáu pháp này chính là cốt tuỷ tinh hoa trong các pháp, Pháp này là tinh tuý nhất quý giá vô cùng ta nay truyền trao cho con sau đó con hãy cất giữ đừng trao cho ai đợi đến ba đời sau sẽ có một vị chân hoá thân của đại thiền trí Naropa. Ngài sẽ là người khai thác tạng kinh đó" (Huyền kí của Ngài Tiphi trong sách Cây tích trượng trang 3 có ghi rõ). Khi Ngài vừa đến Lhodrag Khachhue trong buổi đi khất thực Ngài nghe tin bậc Thượng sư đã nhập Niết Bàn, Ngài đau khổ vô cùng, bậc Thượng sư ra đi như mặt trời mất, thế gian chìm trong tăm tối khổ não. Ngài vội vàng trở lại Naphu để lo việc trà tỳ kim thân của bậc Thượng sư tôn quý, xây dựng bảo tháp để tôn thờ xá lợi và truyền nốt những quán đỉnh đang dở dang cho đại chúng. Sau khi sắp xếp mọi việc ổn định, Ngài lại quay trở lại Lhotrag Kharchhu, có hai người Jargom và Sherye đi cùng nhưng họ đã không chịu nổi những khó khăn nên bạch với Ngài: “Thưa Ngài chúng tôi không chịu nổi xin được trở về”. “Được thôi, các ngươi hãy trở về nơi an vui mà sống còn ta sẽ ở lại đây quyết tâm bế quan trong 3 năm.” Thế là họ đã từ giã và để lại Ngài sống một mình. Lúc đó cuộc sống của Ngài vô cùng khó khăn vất vả, y phục, ẩm thực thiếu thốn mà phải đương đầu với cái lạnh thấu xương tủy của xứ tuyết. Chẳng có bóng ai qua lại duy chỉ có một vị thí chủ tên là Jowo Kungapra cúng dường cho Ngài 3 túi bột nhỏ trong một tháng. Nhưng cho dù vất vả khó khăn đến đâu thì Ngài vẫn cương quyết không một niệm thoái lui. Sau đó Ngài mắc bệnh rất nặng, vô cùng mệt mỏi. Đúng lúc này thì nội chướng ngoại chướng đều tập hợp đến quấy phá. Thiên ma đã dẫn đến cả vạn thiên binh chúng hiện đủ hình dạng khác nhau trông rất kinh sợ, chúng hò hét quát mắng rung chuyển cả trời đất. Ma vương đã xuất hiện với vẻ mặt hung tợn đứng trước mặt Ngài quát mắng: “Hãy nhìn thẳng vào mặt ta đây. Ta là người có sức mạnh uy quyền làm chủ cả 3 cõi thế gian sẽ không có chỗ nào cho ngươi, ta sẽ thiêu đốt thế gian này thành tro bụi”. Ma vương đã nói rất nhiều …..rồi nó lại hô hào ma quân tìm đủ cách tấn công quấy phá một cách kịch liệt giữ dội. Nhưng đức Tsangpa Gyare vẫn an nhiên tự tại chẳng chút sợ hãi, Ngài liền cất tiếng bảo bọn chúng rằng: “Này ma vương, ta đã thấy rõ rồi cho dù mọi âm thanh sắc tướng kinh dị của người vừa làm cũng chẳng làm rung động nổi một lỗ chân lông của ta, mọi việc làm của ngươi cũng vô ích. Thôi hãy đi xa ra đằng kia đừng quấy nhiễu ta”. Dứt lời tất cả ma vương cùng quyến thuộc chúng đều rất ngạc nhiên kinh sợ dáo dác nhìn nhau rồi tan biến mất. Thế rồi một lúc sau, Ngài liền nghe từ xa vọng lại những âm thanh nhẹ nhàng du dương, những mùi thơm kì lạ và từ phía trước đang tiến về một đoàn thiếu nữ lộ trần người xinh đẹp tuyệt trần mang nhiều trang sức châu báu, miệng chúm chím cười khêu gợi dáng dấp e thẹn và cất tiếng thỏ thẻ: “Như trong một hồ sen xanh tốt, Ngài là một cánh sen tươi đẹp chẳng loài hoa nào có thể sánh kịp và nếu Ngài kết duyên cùng em thì thật xứng đôi vừa lứa” ….Ma nữ đã dùng biết bao lời để dụ dỗ khiêu động lòng Ngài, Ngài đã cất tiếng bảo chúng rằng: “Này yêu nữ, những sắc đẹp yêu kiều diễm lệ có khác gì bông hoa ban đầu tươi đẹp nhưng sau sẽ úa tàn, thế gian có cái gì gọi là đẹp. Nhìn sâu vào ta đã thấy rõ mọi khổ đau bên bức bình phong kia. Ta đã thấy rõ được bản chất thật của thế gian là vô thường, vô ngã, khổ và không,…. Các ngươi hãy trở về chỗ ở của mình đừng đem những lời giả dối mà nịnh bợ ta, chỉ uổng công thôi”. Ma nữ nghe xong biết không thể dụ dỗ nổi bậc giải thoát nên đã rút lui. Đức Tsangpa Gyare đã nghĩ về quá khứ về bậc đạo sư của mình…. Ngài đã lập thệ nguyện dù thân này có mất cũng quyết đạt giác ngộ. Ngài đã cất lên tiếng hát tán thán chư Phật và cầu nguyện đến bậc đạo sư. Rốt cuộc Ngài đã chứng ngộ các quả vị từ thấp đến cao và cho đến quả vị thù thắng nhất. Ngài đã cảm hoá tất cả ma quỷ và trở thành các vị hộ pháp đắc lực cho giáo pháp. Trong thời gian đó có một tu sĩ tên là Geshe Shuwu Nare đã hỏi “Ngài ở trong hang động bịt kín tối om chẳng thấy gì thế thì Ngài chứng ngộ được điều gì?” Ngài liền cất tiếng hát: “Namo Rinpoche! Thấy rõ bản tâm chân thật thì sinh tử niết bàn chỉ là một, tất cả vạn pháp tự tính đều bình đẳng, từ bỏ các việc ác tích tập các việc lành cũng không còn. Đó là những gì mà ta thấy.” Ngài đã ở Lhorag Kharchhu 3 năm 18 tháng mà không rời khỏi chỗ. Vào một đêm, trong lúc xả thiền, Ngài đã có linh kiến gặp lại đức Lingchen, bậc đạo sư đã khẩu truyền cho Ngài và nói: “Sau này con có thể làm lợi ích chúng sinh và vô số hữu tình”. Bậc đạo sư đã ban bố cho Ngài rất nhiều huấn từ. Lần khác đang ngủ, Ngài mơ thấy một vị mặc đồ trắng tay cầm gậy vải ngũ sắc và hỏi: “Này bậc hành giả, Ngài chính là hoá thân của Naropa chẳng hay không nhớ sao?”, nói xong liền chỉ tay về vách đá đằng kia và nói nơi đó đã cất giữ Sáu pháp bình đẳng của Ngài trước đây, nói xong vị đó liền biến mất. Ngài liền tỉnh giấc và nhập vào đại định quán sát liền thấy rõ tất cả tiền kiếp của mình cũng như những lời tiên tri trước đây của bậc đạo sư. Thế là đấng hộ trì chúng sinh đã đến núi đá và đã khám phá khai thác ra kho tàng kinh điển “Sáu pháp bình đẳng" do tổ Rechungpa thọ nhận từ tổ Tilopa và chôn giấu sau khi từ Ấn Độ trở về. Ngài đã ở Lhodrag Kharchhu thiền định rất nhiều năm và bây giờ Ngài quyết định trở về Naphu. Ở đây, Ngài đã hoằng dương Phật Pháp làm nhiều công hạnh lợi tha để lợi ích chúng sinh không thể kể xiết. Chính trong thời điểm này, Ngài đã thấy Yeshe Dakini Sengge Dongchen (Khandroma trí tuệ có mặt sư tử) hiện giữa hư không và dạy rằng: “Nay phái Drikung họ đang đi đến khu thánh địa Tsari, hỡi Tsangpa Gyare, như thế chưa phải thời điểm để con lên đường hay sao?" Lời dạy vừa dứt, Đấng hộ trì đã nhập định quan sát và nhớ lại những lời dạy của bậc đạo sư trước đây. Ngay lúc đó đức Lingchen đã xuất hiện và bảo rằng: “Con hãy đi từ đây về Đông nam có cung điện của Bản Tôn Chakrasamvara có Khandro Yinyingphu có sự giác ngộ của Lingchen… Đã đến thời điểm con phải đi, đừng ở yên một nơi nữa”. Bầu trời thế gian đang tăm tối khi mặt trời mọc sẽ chiếu sáng khắp muôn nơi. Và cuộc hành hương triều bái thánh địa Tsari đã bắt đầu như thế. Đoàn hành hương của Ngài Tsangpa Gyayre gồm tất cả 5 người, giữa đường họ gặp phái Drikung và họ đã hỏi nhau rất nhiều vấn đề và quyết định đi cùng nhau. Phái Drikung chuẩn bị hành lý thức ăn rất nhiều, mọi y phục rất sang trọng nên khi họ nhìn thấy đoàn người của đấng Hộ Trì hành lí chẳng có gì y phục thì đơn sơ, mộc mạc họ cũng sinh tâm coi thường. Nhưng đức Tsangpa Gyare vẫn điềm nhiên. Năm chị em Ngài Tsheringma đã hoá thân làm 5 con chim dẫn đường. Đường đi gian khổ vất vả vô cùng, đoàn Drikung đã rút lui quay trở về, còn đoàn Ngài vẫn tiếp tục đi. Đang đi đến nơi nọ bỗng nhiên có một con rùa to lớn bò ngang chặn đường trông rất gớm giếc. Trước dị cảnh đó, trong đoàn có người thiền định về tánh không, có người thiền định về từ tâm. Người khác thì làm Torma khiển trừ chướng ngại, chỉ riêng Đức Tsangpa Gyare với cặp mắt trí tuệ của mình Ngài biết đó là quỷ hiện hình nên đã lấy tay đập mạnh vào đầu nó. Mọi người can Ngài và xin đừng làm như vậy sẽ có hại cho đời Ngài và tuổi thọ của Ngài, đức Tsangpa Gyere đã trả lời: “Dù ta đánh hay không đánh nó thì tuổi thọ của ta cũng không vượt quá 51”, nói xong Ngài đã nhảy lên giẫm nát con rùa thành cát bụi và tại chỗ này Ngài đã in một bước chân trên đó. Thế là đoàn tiếp tục đi, đã có vô số các Dakini cùng vô số quyến thuộc cung đón đến một dòng nước nhỏ trong mát. Ngài đã tắm rửa và bỏ y cùng cỗ tràng trên bờ, Khandro Senggye Dong đã hoá thành trẻ nhỏ lấy cỗ tràng đem đi. Trên suốt dọc đường đi các Daka và Dakini chư thiên đã hiện ra cung đón cúng dường Ngài rất nhiều, khi đến Tsari cũng vậy chư thiên trỗi nhạc rải hoa cung nghinh bậc giác ngộ và tùy tùng. Nhưng khi Pháp Vương hỏi 2 vị thị giả có thấy gì không họ bảo: “Chúng con chỉ thấy những đàn ong xinh đẹp bay lượn rất nhiều chẳng thấy gì hơn cả." Ở tại đây Ngài đã thấy rất nhiều cảnh giới Mandala của nhiều Bổn Tôn khác nhau đặc biệt là bảy Chư Phật hiền kiếp xuất hiện các Ngài đồng thanh bảo rằng: “Này con yêu! Đã đến lúc con di chuyển bánh xe pháp lợi ích cho vô lượng chúng sinh”. Ngài đã ở lại đây thiền định trong nhiều tháng. Tại nơi thánh địa siêu việt phi thường này, Đức Tsangpa Gyare đã linh kiến thấy bản tôn Chakrasamvara huyền ký rằng, Ngài sẽ thành tựu ngôi chính đẳng chính giác và là Đức Phật Moëpa trong tương lai. Theo những khai thị bí mật của chư Dakini, Ngài cũng đã khám phá rất nhiều kho tàng giáo pháp tại miền Nam Tây Tạng. Lần thứ 2 Ngài muốn đến Tsari, lại một lần nữa các đệ tử đã cầu thỉnh Ngài đừng đi, nhưng Ngài vẫn quyết định lên đường. Trước khi đi, Ngài dặn các đệ tử: “Sinh tử là việc lớn phải nỗ lực thực hành giáo pháp để một đời có thể giác ngộ thành Phật…”. Đấng hộ trì đã quyết định thực hiện chuyến hành hương và lần này cũng chỉ có một mình Ngài, trên đường đi Ngài có nhận được một cái mũ của đức Droje Phacmo do vị trưởng dòng phái Drikung dâng cúng. Năm 1194, khi đến chùa của Zhang Rinpoche, Ngài đã thọ giới Sadi và Tỳ kheo với Đấng Hộ trì chúng sinh Zang Youtrakpa và được ban pháp danh là Yeshe Dorje. Tiếp tục sự nghiêp hoằng dương Phật Pháp và đi tìm linh địa nhằm kiến lập tự viện. Dưới sự hướng đạo của bản sư Lingchen Repa và bản tôn của Ngài, Đức Tsangpa Gyare đã kiến lập tự viện Longdol (gần Lhasha), tự viện Shedrub Chokhor Ling tại Ralung gần tỉnh Tsang vào năm 1193. Bản sư Lingchen Repa cũng chỉ dạy Ngài có bổn phận hoằng dương trải rộng giáo pháp. Sau đó vào năm 1206, khi Ngài đang trên đường tới vùng U để kiến lập một trung tâm tự viện lớn, Ngài và chúng đệ tử vừa tới Namgyi–phu thì chứng kiến điềm đại cát tường chín rồng thiêng (tương truyền là các hóa thân của chín Đại Thành Tựu Giả Ấn Độ) cuộn mình từ mặt đất bay vút lên không trung vang vọng những tiếng rồng sấm trong khi mưa hoa từ trên trời rơi xuống. Từ đó, dòng truyền thừa được mệnh danh là Drukpa. Theo tiếng Tạng Druk có nghĩa là “Rồng”. Tự viện Druk Sewa Jangchub Ling hay “Thánh địa của Truyền Thừa Drukpa Tối Thượng” đã được kiến lập tại đây. Trong một khoảng thời gian dài, đây là tự viện chính của Truyền thừa Drukpa, được mệnh danh là tự viện amdruk. Đã có khoảng một ngàn am thất được xây dựng tại đây trong vòng một năm. Các đệ tử đem sự gia trì của Ngài hoằng truyền giáo pháp trải khắp muôn nơi. Ngài Gyalwang Gotsangpa và các đệ tử (1189-1258) truyền pháp ở Miền Tây – Tây Tạng thiết lập nên dòng “Drukpa Thượng”. Ở Miền Đông Tây Tạng, Ngài Gyalwang Lorepa và các đệ tử (1187-1250) thiết lập nên dòng “Drukpa Hạ”. Đấng hộ trì chúng sinh có vô lượng đệ tử, lúc gần nhập niết bàn, Ngài chỉ ở một chỗ không đi bất kỳ một nơi nào. Ngài thường căn dặn các đệ tử có những điều gì nghi ngờ cứ hỏi và nỗ lực thực hành pháp thiền định về Đại Thủ Ấn (Mahamura) và dặn dò rằng nếu như các đệ tử có niềm tin tuyệt đối với bậc Thầy, thì dù bậc Thầy có nhập diệt nhưng nếu đệ tử trí thành cầu nguyện thì bậc Thầy vẫn luôn hiện diện như trước đây. Ngài nhắc tới việc thường cầu nguyện đến bậc Đạo Sư của mình, và bậc Đạo sư vẫn luôn xuất hiện ban gia trì cho Ngài. Vào một buổi sớm mùa xuân năm 1211, khi Đức Tsangpa Gyare đang chuẩn bị cử hành nghi lễ quán đỉnh hàng năm, bỗng xuất hiện rất nhiều điềm bất tường như động đất, hào quang cầu vồng và rất nhiều sao băng trên bầu trời. Lo sợ rằng đây là điềm báo một chướng ngại lớn đối với thọ mạng của Ngài, rất nhiều người đã thỉnh cầu Ngài không tiếp tục ban quán đỉnh. Mặc dù vậy, Ngài vẫn tiếp tục cử hành nghi lễ. Sau khi kết thúc ngày thứ hai của lễ quán đỉnh, Ngài đã dạy: “Thậm chí nếu ba đời chư Phật thị hiện nơi đây thì cũng sẽ không làm gì khác với những gì ta đã làm.” Khi nói điều này, Ngài đã rất hoan hỷ nhưng sang ngày tiếp theo, Ngài đã trở bệnh. Các đệ tử cử hành rất nhiều nghi lễ cầu nguyện với mong muốn sức khỏe của Ngài sẽ sớm bình phục, song Ngài dạy rằng mình sẽ thị hiện viên tịch vào mùa thu năm đó. Sau đó Ngài ban lời di huấn: “Truyền thừa Drukpa vẫn sẽ phát triển và tăng trưởng rộng khắp. Những ai đã thụ nhận giáo pháp Mahamudra nên thấy tự vừa lòng trong tu tập và có thể luận giải cho người khác. Còn những người khác thì hãy tu tập hồi hướng công đức, cầu nguyện cho đạo sư trong ba năm. Những đệ tử ưu tú nhất của ta hãy bế quan nhập thất thiền định, rồi sau đó sẽ lợi ích cho vô số người khác. Những đệ tử cao cấp thì nên nhận chỉ dạy, hướng đạo cho một hoặc hai đệ tử trong những am thất cô tịch, trong nghĩa địa, nơi thâm sơn cùng cốc. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được nhảy múa thì hãy để cho họ nhảy múa. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được khóc thì hãy để cho họ khóc. Nếu những ai đau buồn về cái chết của ta mong muốn được cầu nguyện hãy để cho họ cầu nguyện. Bởi vì, từ bi và trí tuệ là những chất liệu cho sự thực hành của ta trong đời này cho nên sẽ cũng là như vậy trong những đời kế tiếp. Các con hãy nhất tâm tinh tiến tu tập. Chủ yếu là hãy nỗ lực thực hành Guru Yoga. Nếu còn những điều gì chưa thông tỏ thì các con sẽ được giải đáp trong những giấc mộng. Nếu các con có lòng chí thành và cầu nguyện tới ta thì sự ban phước sẽ tăng trưởng rất nhiều”. Hướng về phía người cháu của mình là Onre Darma Sengye, Ngài nói: “Sau khi ta viên tịch, hãy trụ trì hai tự viện Namdruk và Ralung. Con phải tinh tiến tu tập trong ba năm để hồi hướng cầu nguyện cho đạo sư của con. Sau đó, hãy xây một tòa tháp và tòa tháp đó sẽ trở thành một bảo tháp có vô số cửa”. Ngài cũng huyền ký với Darma Sengye là: Sau khi ta nhập diệt, chín Nhiếp chính vương nắm giữ dòng truyền thừa có pháp danh “Sengey” sẽ thay nhau kế tiếp ta hoằng dương chính Pháp lợi ích cho vô lượng quần sinh. Tiếp đến là 3 vị hóa thân – chủ của Ba Bộ (Mạn thù sư lợi, Quan thế âm và Kim cương thủ). Sau đó ta sẽ hóa thân trở lại thế giới này". Sau lời di giáo, Ngài tới tự viện Yangon và an nhiên thị tịch vào ngày 25 tháng mùa thu thứ 3 (tháng 10 - tháng 11) năm Tân Mùi (1211). Vào lễ trà tỳ, bảo cái, cầu vồng xuất hiện phía trên tự viện và mưa hoa rơi xuống. Khi đấng hộ trì chúng sinh nhập diệt như mặt trời lặn, củi hết lửa, chúng sinh chìm trong tăm tối, thế gian trống rỗng …. Tiếng kêu trấn động 33 tầng trời, tất cả thiên chúng đều buồn khổ, chủ của 33 tầng trời dắt tuỳ tùng ở giữa hư không cúng dường thiên y, các thứ hoa báu âm nhạc, đồ hương vô lượng vô biên chẳng thể kể xiết.. . Các đệ tử cùng hội chúng lập đàn cầu nguyện suốt 18 ngày… Sau đó, họ làm một ngôi nhà trang trí cờ hoa lọng phướn, trang nghiêm vô cùng để làm lễ trà tỳ kim thân Ngài. Các chư thiên mang lửa xuống để làm lễ trà tỳ nhưng không cháy nổi, cuối cùng từ kim thân của Ngài phóng ra ngọn lửa Tam Muội to lớn tỏa sáng khắp 10 phương thấu đến cả địa ngục. Sau đó, ánh sáng lại thu vào nhập vào thân Ngài rồi từ rốn Ngài phóng ra một ngọn lửa tự lan trà tỳ thân Ngài. Sau lễ trà tỳ đã thu lượm vô số xá lợi.
Tim, lưỡi và mắt của Ngài vẫn còn nguyên vẹn. Đầu cốt của Ngài xuất hiện thánh tượng Bồ Tát Quan Thế Âm, Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Kim Cương Thủ; 21 đốt sống lưng của Ngài chuyển thành 21 thánh tượng nhỏ của Đức Quan Thế Âm. Hầu hết trong số đó vẫn được bảo tồn cất giữ trong bảo tháp tại tự viện Ralung. Trong khi không hiện thân ở cõi này, Ngài an trụ tại cõi Abhirati Đại An Lạc, cảnh giới Tịnh Độ của Phật A Súc Bệ. Ngài thành tựu đại tịnh hóa trong đức tướng Đại Bồ Tát Tịnh Quang tại cõi tịnh này. Trong khoảng thời gian trước khi Ngài hóa thân trở lại thế giới này, chín vị hóa thân mang pháp danh “Sengey” nghĩa là Sư tử và Chủ của Ba Bộ đản sinh trong cùng một dòng họ thuộc bộ tộc Gya. Các ngài kế tiếp nhau nắm giữ Truyền thừa ở tự viện Ralung. Tuy nhiên tất cả đều không phải là hóa thân của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa. Với những thành tựu tâm linh đã chứng đạt, Đức Tsangpa Gyare trở nên nổi tiếng là Druk Thamchay Khyenpa hay “Bậc Thiên Long Chí Tôn Toàn Giác” và được tôn xưng là Je Drukpa (tiếng Tạng nghĩa là Bậc Thầy Thiên Long Chí Tôn) hay The Drukchen (Bậc Thiên Long Chí Tôn). Tuy nhiên, pháp danh tôn xứng nhất của bậc thượng sư giác ngộ này cũng như những hóa thân đời sau của Ngài là Gyalwang Drukpa, trong đó Gyalwang có nghĩa là “Vị Vua của các Đấng Chiến Thắng”. Ngài là một đạo sư trứ danh và mỗi khi Ngài truyền pháp có tới hơn 50.000 người tham dự. Theo điển tích ghi lại, Ngài có tới 88.000 đệ tử, trong số đó 28.000 là hành giả Yogi giác ngộ. Dòng truyền thừa của Ngài lừng danh bởi sự thanh tịnh, giản dị, tính chân tu khổ hạnh của các đệ tử cùng những pháp truyền thừa tu trì thâm diệu. Ngài đã trước tác cuốn luận giảng nổi tiếng Tantra of Chakrasamvara và hoằng truyền giáo pháp rộng khắp cho đến tận ngày nay vì lợi ích của hết thảy hữu tình chúng sinh.
Nguồn: http://www.drukpavietnam.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét