Trần Mỹ Giống
Gia đình Dương Không Lộ sống ở làng Giao Thuỷ, chuyên nghề chài lưới ven sông. Khi lớn lên, ông lấy việc câu cá, quăng chài làm vui và thường du ngoạn nhiều nơi danh lam thắng cảnh, tuỳ hứng ngâm vịnh và sáng tác thơ ca.
Năm Giáp Thân (1044) triều Lý Thái Tông, ông 29 tuổi, bỏ nghề đánh cá để theo học đạo thiền. Ban đầu ông theo học Noãn cư sĩ làng Bảo Tài (chưa rõ nay ở đâu). Sau ông đắc đạo, trở thành Tổ thứ 10 của thiền phái Vô Ngôn Thông, một thiền phái được thành lập ở nước ta vào đầu thế kỷ thứ IX.
Năm Đinh Dậu (1057) ông chuyển sang theo học thiền phái Thảo Đường. Thảo Đường thiền sư từng nhận xét về học trò Không Lộ của mình: “Chú này cốt cách phi phàm, sau này tất làm pháp tự.” Quả nhiên về sau, Không Lộ trở thành Tổ đời thứ 3 của thiền phái Thảo Đường.
Năm Kỷ Hợi (1059), Không Lộ tu tại chùa Hà Trạch, rồi chuyển về tu ở chùa Duyên Phúc (tức chùa làng Hộ Xá) sau đổi là chùa Viên Quang.
Năm Nhâm Dần (1062) Không Lộ cùng Giác Hải và Đạo Hạnh đi Tây Trúc cầu kiến Phật Tổ, được Phật Tổ giác ngộ và truyền cho phép lạ.
Năm Quý Mão (1063) Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi là Thần Quang) tại làng Dũng Nhuệ. Sau do đất lở xuống sông Hồng, chùa được chuyển sang làng Dũng Nghĩa (Vũ Thư, Thái Bình).
Năm Nhâm Tý (1072), Không Lộ cùng Giác Hải chữa khỏi bệnh sợ tắc kè kêu cho vua Lý Nhân Tông. Ông được phong làm Quốc sư. Vua Lý Nhân Tông có bài thơ ca ngợi hai ông như sau :
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo cánh huyền
Thần thông năng biến hoá
Nhất Phật nhất thần tiên.
Dịch:
Giác Hải lòng tựa biển
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông hay biến hoá
Một Phật, một thần tiên.
Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1094), Không Lộ thiền sư viên tịch, thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm ất Hợi (1095) Giác Hải thu thập xá lị của Không Lộ, xây tháp để chôn cất, tạc tượng để thờ tại chùa Nghiêm Quang. Vua Lý Nhân Tông xuống chiếu tu sửa chùa, cắt 3.000 hộ hương khói phụng thờ ông.
Trong các sách giáo khoa văn, các tổng tập và tuyển tập văn học Việt Nam và một số sách khác xuất bản gần đây cho biết Không Lộ chỉ còn hai bài thơ là “Ngôn hoài ” và “Ngư nhàn ”.
Khi chọn được đất làm chùa Nghiêm Quang, ông có bài kệ nổi tiếng mà người đời sau gọi là bài “Ngôn hoài” (Nói nỗi cảm hoài):
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái dư.
Dịch:
Chọn đất long xà tới nghỉ ngơi
Lòng quê vui thích thú thảnh thơi
Núi cao có lúc trèo lên đỉnh
Thét một tiếng vang lạnh cả trời.
Bài thơ thể hiện nỗi vui mừng khi chọn được đất tốt để xây chùa làm nơi trụ trì, bộc lộ tình cảm bất tận của tác giả đối với đồng quê, thiên nhiên, tạo vật, đất nước. Có khi tác giả trèo lên một đỉnh núi, nhìn ngắm thiên nhiên hùng vĩ, với tâm hồn phóng khoáng, cảm khoái và cao hứng thét lên một hơi dài làm lạnh cả bầu trời. Bài thơ cũng thể hiện tinh thần “Vô chấp giới” nhằm đạt tới sự tự do hoàn toàn, giải phóng bản thể mà hoà nhập với vũ trụ theo quan điểm nhà Phật “Vạn vật nhất thể ”. Câu kết của bài thơ, “Trường khiếu nhất thanh hàn thái dư” - Thét một tiếng dài làm lay động cả bầu trời là hình ảnh hào hùng, sảng khoái hiếm thấy trong lịch sử thơ thiền Việt Nam.
“Ngư nhàn” cũng là một bài thơ đặc sắc của Không Lộ. Bài thơ là một bức tranh phong cảnh sơn thuỷ sinh động và tuyệt đẹp: Dòng sông xanh liền với trời bát ngát, bãi dâu chen mọc, làn khói toả thanh bình trong thôn xóm, bác chài ngủ ngon lành trong thuyền khi tỉnh giấc thấy thuyền đầy hoa tuyết... Bài thơ mang cảm xúc thiền học tinh tế, trong trẻo, thể hiện trạng thái tâm hồn lâng lâng trong cõi không hư, mông lung và huyền ảo:
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên,
Ngư ông thuỵ trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.
Ngọc Liên dịch:
Bát ngát sông xanh, bát ngát trời,
Một thôn mây khói, một dâu gai.
Ông chài ngủ tít không người gọi,
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi.
Năm 62 tuổi, một hôm Không Lộ đang tĩnh toạ thì chú tiểu hỏi: “Từ khi tôi đến đây chưa được thầy dạy cho tâm yếu ” . Không Lộ trả lời: “Chú đem kinh cho ta thì ta tiếp, đem nước cho ta thì ta nhận, lúc nào ta cũng dạy tâm yếu chú ” rồi cười và đọc bài kệ sau:
Đoàn luyện tâm thâm thuỷ đắc tinh
Sâm sâm trực thượng đối hư đình
Hữu nhân lai vấn không không pháp
Thân toạ bình biên ảnh tập hình.
Dịch:
Tu luyện bao phen phép đã tinh
Muốn lên đối phó chốn hư đình
Không không nhẽ đó nào ai biết
Ngồi tựa bình phong, bóng ẩn hình.
Trong cuốn Thiên tiên Phật Thánh lục có chép bài thơ sau đây của Không Lộ, khi ông gặp Giác Hải. Bài thơ rất lạ, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng từ ngữ :
Thiên liên bích thụ, thụ liên thiên,
Yên toả thanh sơn, sơn toả yên,
Thụ nhiễu tùng la, la nhiễu thụ,
Xuyên thông vu giáp, giáp thông xuyên,
Tửu mê tuý khách, khách mê tửu,
Thuyền tống hành nhân, nhân tống thuyền,
Hội đắc tri âm, âm đắc hội,
Truyền kim đáo cổ, cổ kim truyền.
Đặng Xuân Bảng dịch:
Da trời giòng biếc nhuộm màu cây
Một giải non xanh toả khói mây
Cây quấn cây tùng, cây rậm rạp
Nước quanh đỉnh giáp, nước vơi đầy
Rượu mê người, người mê rượu đấy
Khách giục thuyền, thuyền giục khách đây
Liệu được tri âm, nào được mấy
Xưa nay vẫn nhớ mãi xưa nay.
Hoặc khi gặp Từ Đạo Hạnh, ông cũng làm bài kệ trả lời Đạo Hạnh như sau:
Ngọc nang bí quyết nghĩ chân kim
Cá chung mãn nguyệt lộ thần tâm
Hà sa cách thị Bồ đề đạo
Nghĩ hướng Bồ đề mãn liễu cầm.
Dịch:
Túi ngọc bí truyền rõ thực vàng
Tháng qua mưa móc dạ xốn xang
Hà sa thu gót Bồ đề đạo
Tìm gặp được nhau mấy đoạn trường.
Một buổi chiều thu, trời trong mây đẹp, ngồi trên thuyền câu, ông cảm hứng đọc thơ:
Ngọc phái chi trường, không sơn hà vạn lại
Dung toạ ngư, ngư khiếp điểu
Dương cung tiễu hạc, hạc nghi cung
Quang phóng vân tiêu ngoại
Phong quang đô hảo đạo khoái lạc.
Dịch:
Ngọc Phái dẫu dài, không bằng núi sông muôn trùng ngọn gió
Thung dung ngồi câu cá, nhưng cá lại sợ chim
Dương cung bắn hạc, hạc ngờ cung
Vút bay rẽ mây lên tít trời cao
Thời tiết đẹp trên đường đi vui vẻ.
Bài thơ thiền sư tự sự về bản thân mình:
Lão hỷ yên hà tẩu
Na tri lợi lộc mến
Thuỳ điểu đương liễu ngạn
Tán võng địch hoá thôn
Bả trạo ngân phong tuyết
Đặc ngư thí tửu tôn
Sơn tiều thời ngộ ngã
Kim cổ mạn tương luân.
Đặng Xuân Bảng dịch:
Yên hà mùi vẫn thích
Danh lợi tính không ưa
Bến liễu buông câu sớm
Làn lau vãi lưới trưa
Gác mái ca phong nguyệt
Được cá chén say sưa
Kiếm củi người đi lại
Vui cùng dở chuyện xưa.
Các sáng tác của thiền sư Dương Không Lộ thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước, gắn bó với thiên nhiên, tạo vật và con người, bằng bút pháp tài hoa, phóng khoáng hiếm thấy. Vì thế, thơ ngài đã trải qua hàng nghìn năm vẫn được lưu truyền, vẫn gây được xúc cảm và tình cảm đặc biệt cho người đọc.
Nguồn: http://newvietart.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét